Tiểu sử

Tiểu sử Nguyễn Phúc Chu – Cuộc đời của Nguyễn Phúc Chu

Nguyễn Phúc Chu

Nguyễn Phúc Chu (chữ Hán: 阮福淍, 1675 – 1725) là vị chúa Nguyễn thứ sáu của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở ngôi từ 1691 đến 1725), nối ngôi Nguyễn Phúc Thái. Dưới thời Nguyễn Phúc Chu, lãnh thổ Đại Việt được mở rộng đáng kể về phía Nam sau các cuộc chiến với Chiêm Thành và Chân Lạp.

Thân thế

Nguyễn Phúc Chu sinh vào tháng 5 âm lịch năm Ất mão (1675), là con cả của Nghĩa vương Nguyễn Phúc Thái. Mẹ ông là Tống Thị Lĩnh ở Tống Sơn, Thanh Hoá (con của Thiếu phó Quận công Tống Phúc Vinh). Đại Nam Thực lục chép: “Trước kia, năm Giáp dần, mùa thu, ở phương Tây Nam trên trời mở ra một lỗ, có mây sắc vận quanh, ở giữa một luồng ánh sáng rực trời tỏa ngay vào chỗ nhà mẫu hậu ở, người thức giả cho là điềm thánh. Năm sau chúa đúng kỳ giáng sinh, mùi thơm nức nhà”.

Bạn đang xem: Tiểu sử Nguyễn Phúc Chu – Cuộc đời của Nguyễn Phúc Chu

Thuở thiếu thời, ông rất chăm học chữ tốt, văn hay, võ giỏi. Ông được phong là Tả binh đinh Phó Tướng Tộ Trường Hầu, làm phủ đệ ở cơ Tả binh.

Năm 1691, Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái qua đời. Quân thần vâng di mệnh, tôn ông là Tiết Chế Thủy Bộ chư Dinh Kiêm Tổng Nội Ngoại Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Tộ Quốc Công.

Bấy giờ, khi nối ngôi chúa Phúc Chu mới có 17 tuổi. Ông lấy hiệu là Thiên túng đạo nhân, cho giảm một nửa thuế ruộng trong năm đó. Thời bấy giờ gọi ông là Quốc Chúa

Điều hành Đàng Trong

Khi mới lên ngôi, ông quan tâm chiêu hiền đãi sĩ, cầu lời nói thẳng, nạp lời can gián, bỏ xa hoa, bớt chi phí, nhẹ thuế má lao dịch, bớt hình ngục. Ông còn cho xây dựng một loạt chùa miếu, mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, chùa Mỹ Am. Bản thân chúa cũng ăn chay ở vường Côn Gia một tháng trời, phát tiền gạo cho người nghèo. Bờ cõi yên ổn do chiến tranh Trịnh – Nguyễn đã tạm ngừng 30 năm.

Mùa thu 1699, triều đình tra xét bắt đạo Thiên Chúa, phàm nhân dân ta ai có đạo thì phải bỏ để trở lại làm dân bình thường, lấy nhà tu làm nhà ở, lại còn đốt sách vở của đạo Thiên Chúa, người phương Tây thì buộc họ phải về nước.

Về mặt Bắc, tuy đã thôi đánh nhau với quân Trịnh, nhưng chúa vẫn lo phòng ngự cẩn thận. Năm 1701, Chúa sai Chưởng dinh Nguyễn Phúc Diệu, cùng Tống Phúc Tài, Nguyễn Khoa Chiêm sửa sang các chính lũy từ núi Đầu Mâu đến cửa biển Nhật Lệ. Chúa sai vẽ bản đồ những nơi hiểm yếu và cho quân lính thao dượt thường xuyên.

Bấy giờ, phía Nam đất đai được khẩn hoang đến tận biên giới Chân Lạp. Trong nước việc nội trị, võ bị, giáo dục được phát triển có quy mô. Bắc Hà tuy có vua Lê nhưng quyền bính ở trong tay Chúa Trịnh. Chúa muốn tách riêng miền Nam thành một nước độc lập. Chúa sai Hoàng Thần và Hưng Triệt đem quốc thư và cống phẩm sang Trung Hoa cầu phong nhà Thanh. Vua Thanh cũng có ý muốn phong nhưng triều thần can rằng:

Nước Quảng Nam hùng trị một phương, Chiêm Thành, Chân Lạp đều bị thôn tính, sau tất sẽ lớn. Tuy nhiên nước An Nam còn có nhà Lê ở đó, chưa có thể phong riêng được

Nên việc cầu phong không có kết quả.

Năm 1702, ở biển phía Nam có giặc biển người Anh đến cướp phá, chiếm cứ đảo Côn Lôn. Đồ đảng hơn 200 người và 8 chiến thuyền, xây dựng sào huyệt kiên cố. Chúa sai Chương dinh Trấn Biên Trương Phúc Phan tìm cách trừ khử bọn cướp. Sau nhờ mộ được 15 người Chà Và (người Mã Lai) làm kế nội ứng, đốt tan được sào huyệt của giặc, tịch thu của cải đem về.

Tháng 8 năm 1708, Mạc Cửu người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, trước đó đến khai thác vùng đất Hà Tiên, dâng thư lên triều đình xin đem đất Hà Tiên quy thuộc miền Nam. Chúa nhận lời và phong cho Mạc Cửu làm làm Thống binh trấn giữ đất Hà Tiên.

Tháng 1 năm 1709, phò mã Tống Phúc Thiệu cùng cai đội Nguyễn Cửu Khâm mưu phản, ngầm liên kết vây cánh, mưu đồ chiếm Bình Khang, Phú Yên xong quay về lấy Quảng Nam rồi thẳng đến Chính dinh phóng lửa nổi loạn. Âm mưu bại lộ, các kẻ chủ mưu đều bị xử tử. Tống Phúc Thiệu bị bãi làm thứ dân và bị tù ở vườn Bát Khải.

Tháng 12 năm 1709, Chúa cho đúc Quốc bảo. Ấn khắc chữ: ” Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo”, để dùng và truyền đời này sang đời khác. Thấy nước giàu binh mạnh, Chúa định có ý muốn Bắc phạt. Chúa cho thám tử ra thăm dò tình hình miền Bắc, sau được tin báo về là Bắc Hà “trong triều cường thịnh, tướng văn, tướng vũ đều là người giỏi, binh lương đầy đủ, quân bộ, quân thủy đã nhiều lại tinh nhuệ v.v..”, Chúa mới không nhắc đến chuyện này nữa.

Trong thời gian trị vì, Chúa đóng góp nhiều công lao trong việc xây dựng kỷ cương Phật giáo, trùng tu chùa chiền và quảng bá đạo Phật khắp nước.

Năm 1694, Chúa sai người sang Quảng Đông mời hòa thượng Thích Đại Sán (Thiền sư Thạch Liêm) sang thuyết pháp về đạo Phật cho quan lại và dân chúng nghe. Hòa thượng đã tổ chức giới đàn để truyền giới Bồ tát cho Chúa và quyến thuộc, quân lại và 1400 tăng ni ở Phú Xuân. Chúa được ban pháp danh là Hưng Long. Thiền sư Thạch Liêm còn trao cho chúa một bản điều trần về việc cai trị quốc gia bằng chánh pháp.

Năm 1710, nhân ngày Phật đản, Chúa cho đúc chuông chùa Thiên Mụ nặng 2,021 kg, cao 2,5 m, đường kính 1,2 m. Tiếng vang của Đại hồng chung bao trùm cả kinh thành.

Năm 1714, Chúa giao cho Chưởng cơ Tống Đức Đạt sửa sang chùa Thiên Mụ. Tất cả thợ khéo các nơi đều được huy động, chùa trở nên nguy nga hơn trước. Lễ khánh thành là ngày hội của dân chúng, những kho lúa của nhà nước được mở rộng để chẩn cấp cho dân nghèo.

Chúa còn cho sửa sang, mở rộng Văn Miếu ở làng Triều Sơn vào mùa xuân năm 1692. Văn học thi cử được chú trọng, Chúa đã cho tổ chức các khoa thi trong phủ Chúa. Trong các vị chúa, Chúa Phúc Chu là người chuộng thơ văn hơn cả.

Năm 1712, chúa cho lập phủ mới ở làng Bát Vọng huyện Quảng Điền.

Nguyễn Phúc Chu làm rất nhiều thơ, ông có nhiều bài thơ khóc vợ với tình ý tha thiết. Ông là người rất đông con: 146 người con gồm 38 người con trai.

Đối ngoại

Chăm Pa

Tháng 8 năm Nhâm Thân (1692) vua Chiêm Thành là Bà Tranh (Po Thot), hợp quân, đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh . Sự việc được báo lên Chúa, Chúa Phúc Chu đã sai Cai cơ Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh, cùng Tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân Chính Dinh cùng quân Quảng Nam và Bình Khang đi đánh .

Đầu năm 1693, Nguyễn Hữu Cảnh bắt được Bà Tranh, Kế Bà Tử (em trai Bà Tranh) cùng thân thuộc là nàng Mi Bà Ân đem về Phú Xuân. Chúa sai kể tội giam cầm họ ở núi Ngọc Trản. Đổi đất Chiêm Thành thành trấn Thuận Thành (đất Panduranga) và lập ra phủ Bình Thuận.

Sau khi Bà Tranh chết tại Huế, Kế Bà Tử đã nổi dậy. Quý tộc Chăm tên Ốc Nha Đạt và người Mãn Thanh tên A Ban chỉ huy quân Chăm. Lúc đó Nguyễn Hữu Cảnh đang đi Tây Chính, và quân Nguyễn ở lại đã bị quân Chăm tiêu diệt hoàn toàn.

Khi Nguyễn Hữu Cảnh trở lại, Kế Bà Tử đã ký hòa ước với chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa Phúc Chu đã đồng ý khôi phục vương quốc Chăm Pa với hình thức là một khu tự trị với tên là Thuận Thành Trấn, và chúa Chăm được gọi là Trấn Vương (khâm lý), con của Bà Ân làm đề đốc để xếp đặt mọi việc trong phủ hạt, là thần hạ của chúa Nguyễn, buộc người dân ăn mặc theo phong tục nước Việt .

Theo bộ văn bản hoàng gia Chăm (bản chữ Hán), mối quan hệ phiên thuộc giữa vùng đất cai quản bởi các chúa Chăm và chính quyền trung ương của chúa Nguyễn diễn ra tốt đẹp.

Chúa Phúc Chu còn mở rộng bờ cõi đất đai xuống phía Nam, đạt được nhiều thành tựu như:

  • Đặt phủ Bình Thuận năm Đinh Sửu (1697) gồm các đất Phan Rang, Phan Rí trở về Tây.
  • Đặt phủ Gia Định.
  • Chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hòa).
  • Lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, lập xã Minh Hương.

Chân Lạp

Tháng 3 năm 1690, Hào Lương hầu Nguyễn Hữu Hào đánh thắng Cao Miên, bắt vua Cao Miên là Nặc Thu đem về Sài Côn rồi nghỉ quân, Cao Miên từ đó mới bình định. Sau đó Nặc Thu bị bệnh mất, Nặc Non cũng mất, các tướng tâu lên rằng dòng đích của vua Cao Miên không còn ai, do đó triều đình phong cho con Nặc Non là Nặc Yêm làm vua và lệnh cho đóng ở thành Gò Vách. (Sử Cao Miên ghi niên hiệu Thiên Vận (1622) là năm Thìn, Nặc Yêm con của Nặc Non là Tham – đích – sá – chiêu – trùy lên làm vua, so ra thời đại và tên gọi khá phù hợp nhưng tháng năm thì sai khác, điều đó còn cần khảo cứu thêm) .

Mùa xuân năm 1698, vua Nặc Yêm nước Chân Lạp cho quân lính cướp bóc dân buôn, triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh sang kinh lược đất Cao Miên, Nặc Yêm xin đầu hàng và nộp cống như cũ. Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân binh thì có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ .

Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch. Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch .

Năm 1705, Nặc Thâm (con Nặc Yêm) nối ngôi cha bất hòa với Nặc Yêm (vua thứ hai của Chân Lạp), nhờ Xiêm La giúp, đem binh đánh Nặc Yêm. Nặc Yêm chạy sang Gia Định cầu cứu, Nguyễn Hữu Cảnh sai tướng Nguyễn Cửu Vân đem binh đánh tan quân Xiêm.

Tuy vậy nước Chân Lạp vẫn chưa yên. Năm 1711, 1714 Nặc Thâm lại vây đánh Nặc Yêm. Nguyễn Hữu Cảnh phải cho các tướng Trần Thượng Xuyên, Nguyễn Cửu Phú đem quân đánh dẹp rồi phong cho Nặc Yêm làm vua Chân Lạp và giúp cho Nặc Yêm khi giới để phòng ngự.

Qua đời

Lăng mộ táng tại Kim Ngọc, Hương Trà, Thừa Thiên. Tên lăng là Trường Thanh

Về sau, nhà Nguyễn truy tôn ông là Hiển Tông, thụy là Anh Mô Hùng Lược Thánh Minh Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh hoàng đế.

Gia đình

Theo Liệt truyện, Nguyễn Phúc Chu có cả thảy 146 người con. Nhưng theo Hoàng tử Phổ và Hoàng nữ Phổ, Chúa có 38 công tử và 4 công nữ.

Vợ

    • Tống Thị Được (1680 – 1716), còn có tên là Quyền, bà nguyên họ Hồ, khi nhập cung đổi qua họ Tống, chánh quán làng Hương Cần (Hương Trà, Thừa Thiên). Bà là con của quan Chưởng dinh Hồ Văn Mai. Khi mất, được phong tặng là Từ Huệ Minh Phi Liệt Phu Nhân. Lăng táng tại làng Trúc Lâm (Hương Trà, Thừa Thiên). Vua Gia Long truy tôn: Từ Huệ Cung Thục Ý Đức Kính Mục Hiếu Minh Hoàng Hậu, đặt tên lăng là Vĩnh Thanh. Bà được phối thờ với Minh vương ở Thái Miếu, án thứ ba bên tả. Bà sinh ra được hai trai: con trưởng là Nguyễn Phúc Thụ, sau này là Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng Đế, con thứ hai là Nguyễn Phúc Tứ về sau được tấn phong là Luân Quốc công.
    • Nguyễn Thị Lan (? – 1714), con gái của Tham chính Nguyễn Hữu Hạp. Khi tiến cung bà được xếp vào bậc Hữu Cung tần rồi được tấn phong lên bậc Chính Nội phủ. Khi mất được truy tôn làm Phu nhân, thụy là Từ Đức, táng ở làng Trúc Lâm (Hương Trà, Thừa Thiên). Bà là mẹ của Dận Quốc công Nguyễn Phúc Điền.
    • Trần Thị Nghi, Tu Dung phu nhân, là mẹ của các công tử Nguyễn Phúc Thể, Nguyễn Phúc Truyền.
    • Lê Thị Tuyên, Hữu Cung tần, là mẹ của Nguyễn Phúc Long.
    • Tống Thị Lượng, Tả Cung tần, là mẹ của công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Sáng.

Con trai

  1. Nguyễn Phúc Chú, mẹ là Tống thị.
  2. Nguyễn Phúc Thể (1697 – 1762), mẹ là Tu Dung phu nhân Trần thị. Đương thời giữ chức Chưởng cơ, sau khi chết truy tặng hàm Chưởng dinh.
  3. Khuyết danh.
  4. Nguyễn Phúc Long (1691 – 1743), mẹ là Hữu Cung tần Lê thị. Giữ chức Chưởng vệ sự.
  5. Nguyễn Phúc Hải
  6. Khuyết danh.
  7. Nguyễn Phúc Liêm
  8. Nguyễn Phúc Thử (1697 – 1763), mẹ là Hoàng thị.
  9. Luân Quốc công Nguyễn Phúc Tứ (1698 – 1753), mẹ là Từ Huệ Tống hoàng hậu.
  10. Nguyễn Phúc Lân, không rõ truyện.
  11. Nguyễn Phúc Chấn (? – 1738).
  12. Dận Quốc công Nguyễn Phúc Điền (1699 – 1739), mẹ là Kính phi Nguyễn thị.
  13. Nguyễn Phúc Đăng (1701 – 1763), mẹ là Hữu Cung tần Lê thị. ban đầu làm Chưởng cơ, sau khi chết tặng hàm Chưởng doanh.
  14. Nguyễn Phúc Thiện (1702 – 1749), mẹ là Nguyễn thị. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  15. Nguyễn Phúc Khánh (1703 – 1748), mẹ là Trương thị. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  16. Nguyễn Phúc Cảo (1705 – 1762), mẹ là Tống thị. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  17. Nguyễn Phúc Bình, không rõ truyện, có con trai tên là Kính.
  18. Nguyễn Phúc Tú, mẹ là Nguyễn thị. Không rõ năm sinh và truyện, được tặng Quận công. Ông có ba con trai: Thắng, Uyên, Dật.
  19. Nguyễn Phúc Truyền, mẹ là Hoàng thị. Không rõ năm sinh và truyện, được tặng Quận công. Ông có hai con trai: Thùy và Nghi.
  20. Nguyễn Phúc Sảm (1706 – 1759), không rõ truyện. Có hai con trai là Kiên và Thuận.
  21. Nguyễn Phúc Quận, không rõ truyện. Có hai con trai là Dục.
  22. Nguyễn Phúc Yển (1707 – 1748), không rõ mẹ. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  23. Nguyễn Phúc Bính (1708 – 1766), mẹ là Lê thị. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  24. Nguyễn Phúc Tông, không rõ truyện.
  25. Nguyễn Phúc Nghiễm, mẹ là Lê thị. Nghiễm làm đến Chưởng cơ, mất năm nào không rõ. Nghiễm có vườn trại ở xã Vân Dương, người đời sau gọi là Viên Công (Vườn ông), gọi chợ ở đó là chợ Viên Công.
  26. Nguyễn Phúc Xuân, mẹ đẻ là ai không rõ. Xuân làm đến Chưởng cơ. Không rõ Xuân mất năm nào và bao nhiêu tuổi.
  27. Thạnh Quận công Nguyễn Phúc Phong (1708 – 1754), mẹ là Chiêu nghi phu nhân Nguyễn thị. Ông ban đầu làm Hữu dực cơ, Chưởng cơ.
  28. Nguyễn Phúc Hạo, không rõ truyện.
  29. Nguyễn Phúc Kỷ (? – 1743), mẹ là Hoàng thị.
  30. Nguyễn Phúc Tuyền, Chưởng cơ, không rõ truyện.
  31. Nguyễn Phúc Hanh, không rõ truyện.
  32. Nguyễn Phúc Lộc (1708 – 1744), mẹ là Lê thị. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  33. Nguyễn Phúc Chiêm (1709 – 1788), mẹ không rõ.
  34. Nguyễn Phúc Khiêm, không rõ truyện.
  35. Khuyết danh.
  36. Khuyết danh.
  37. Nguyễn Phúc Độ (1710 – 1752), làm đến Chưởng Cơ.
  38. Nguyễn Phúc Tài, không rõ truyện.

Con gái

  1. Nguyễn Phúc Ngọc Sáng (? – 1721), mẹ là Tả Cung tần Tống thị, lấy Chưởng vệ Tống Văn Xuân. Khi chết truy phong là Tống Sơn Quận chúa Trinh phu nhân.
  2. Nguyễn Phúc Ngọc Phượng (? – 1722), lấy Chưởng doanh Nguyễn Cửu Thế, cháu nội Nguyễn Cửu Kiều. Khi chết truy tặng Tống Sơn Quận chúa Tư phu nhân.
  3. Nguyễn Phúc Ngọc Nhật, lấy Cai cơ Nguyễn Cửu Duyệt, là chắt Nguyễn Cửu Kiều.
  4. Khuyết danh.

Xem thêm

  • Chúa Nguyễn
  • Nguyễn Phúc Trăn
  • Đàng Trong
Tiền nhiệm:
Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn
Minh Vương
1691-1725
Kế nhiệm:
Chúa Ninh Nguyễn Phúc Chú

Tham khảo

  1. ^ aăâGia tộc Nguyễn Phước 2006
  2. ^ Đại Nam thực lục, tập 1, trang 78
  3. ^ aăâbĐại Nam thực lục, tập 1, trang 91
  4. ^ Đại Nam thực lục, tập 1, trang 92
  5. ^ Lê Quý Đôn (tác giả), Ngô Lập Chí (phiên dịch), Phủ biên tạp lục, 1959, trang 20
  6. ^ Nguyễn Lang (1979), Việt Nam Phật giáo sử luận, quyển 3, chương 23: Thiền phái Tào Động tới Việt Nam
  7. ^ Phủ Diên Ninh lúc này cho lệ vào dinh Bình Khang, dinh Bình Khang trước là dinh Thái Khang được đổi năm 1690.
  8. ^ Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, tr.147.
  9. ^ Theo Đại Nam Thực Lục Tiền Biên
  10. ^ Hoa Di Biến Thái (Ka-i-hen-tai, sử liệu Nhật Bản cuối thế kỷ thứ 17-đầu thế kỷ thứ 18)
  11. ^ aăâGia Định Thành Thông Chí. Quyển 3: Cương vực chí- Trịnh Hoài Đức.

(Nguồn: Wikipedia)

Đăng bởi: Trường Tiểu Học Tiên Phương

Chuyên mục: Tiểu sử

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Kênh https://xoilaczzh.tv/ trực tiếp bóng đá