Học TậpLớp 10

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên hay nhất

Thầy cô xin giới thiệu Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 10 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên

Dàn ý Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên

Bạn đang xem: Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên hay nhất

a) Mở bài

– Giới thiệu vài nét về Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều:

+ Nguyễn Du (1765 – 1820) là đại thi hào của dân tộc Việt Nam với tài năng kiệt xuất, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc.

+ Truyện Kiều là một kiệt tác kinh điển của nền văn học Việt Nam, được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát gồm 3254 câu.

– Giới thiệu đoạn trích Trao duyên:

+ Đoạn trích từ câu 723 đến 756 trong tác phẩm “Truyện Kiều” phần gia biến và lưu lạc, thuật lại diễn biến tâm trạng của Kiều trong đêm cuối cùng trao duyên cho Thúy Vân nhờ em trả nghĩa với chàng Kim hộ mình.

b) Thân bài: Cảm nhận 12 câu thơ đầu bài Trao duyên

* Luận điểm 1: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều với Thúy Vân (2 câu thơ đầu)

– Lời nói:

+ “Cậy em”: nhờ vả, gửi gắm, mong đợi, tin tưởng về sự giúp đỡ của em.

+ “Chịu lời”: Đồng nghĩa với “nhận lời” nhưng “nhận lời” nó còn bao hàm sắc thái tự nguyện, có thể đồng ý hoặc không đồng ý, còn “chịu lời” thì bắt buộc phải chấp nhận, không thể từ chối bởi nó mang sắc thái nài nỉ, nài ép của người nhờ cậy.

-> Ngôn ngữ vừa nhờ vả, vừa nài nỉ, vừa là sự ép buộc.

– Hành động “Lạy, thưa”: trang nghiêm, trịnh trọng, hạ mình của người bề dưới với người bề trên -> cách nói tạo sự ràng buộc tế nhị

– Kiều là chị lại lạy, thưa em mình

-> Đây là hành động bất thường nhưng lại hoàn toàn bình thường trong hoàn cảnh này bởi hành động của Kiều là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân. Bởi vậy, việc Thúy Kiều nhún nhường, hạ mình van nài Thúy Vân là hoàn toàn hợp lí.

=> Hành động bất thường đặt trong mối quan hệ với các từ ngữ đặc biệt đã nhấn mạnh tình thế éo le của Thúy Kiều.

* Luận điểm 2: Lí lẽ trao duyên của Kiều (10 câu thơ tiếp)

– Tình cảnh đặc biệt của Kiều:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai”

+ Thành ngữ “đứt gánh tương tư”: tình duyên dang dở của Thúy Kiều -> Thúy Kiều ở vào tình cảnh không thể khác, đó là lý do để nhờ em.

+ Đứng giữa bên hiếu và bên tình, nàng lựa chọn việc trao duyên.

+ Chữ “mặc”: phó mặc, ủy thác, ủy nhiệm -> Kiều giao toàn bộ trọng trách cho Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

-> Tâm trạng Kiều đau đớn, xót xa

=> Lời thuyết phục khôn khéo của Kiều dấy lên tình thương và trách nhiệm của người em đối với chị của Thúy Vân.

– Nhắc lại mối tình đẹp với Kim Trọng:

+ “Quạt ước, chén thề”: những kỉ niệm đẹp, ấm êm, hạnh phúc của Kim và Kiều với những lời thề nguyền, đính ước gắn bó, thủy chung.

+ “Sóng gió bất kì”: Tai họa bất ngờ ập đến, Kiều bị đẩy vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, phải chọn giữa tình và hiếu. Kiều đã chọn hi sinh chữ tình.

-> Mối tình Kim – Kiều là mối tình đẹp nhưng mong manh, dễ vỡ

=> Vừa bộc lộ tâm trạng đau đớn, xót xa của Kiều, vừa khiến Vân xúc động mà nhận lời.

– Kiều nhắc đến tuổi trẻ, tình máu mủ và cái chết

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”

+ “ngày xuân”: tuổi trẻ -> Thúy Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước.

+ “Tình máu mủ”: tình cảm ruột thịt của những người cùng huyết thống.

-> Kiều khéo léo thuyết phục Vân bằng tình cảm ruột thịt để em không thể chối từ.

+ “Thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối” -> cái chết đầy mãn nguyện của Kiều.

=> Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời.

+ “Chị dù … thơm lây” -> Đối với Kiều việc Thúy Vân chấp nhận lời nhờ cậy giống như một sự ban ơn.

=> Lí lẽ của Kiều vừa thấu tình vừa đạt lí khiến Vân không thể không nhận lời. Qua đó thấy Kiều là một người con gái thông minh, sắc sảo và đầy cảm xúc.

* Đặc sắc nghệ thuật:

– Sử dụng từ ngữ tinh tế, tài tình

– Sử dụng thành ngữ dân gian, hình ảnh ẩn dụ

– Thủ pháp nghệ thuật liệt kê, ẩn dụ

– Giọng thơ nhẹ nhàng, da diết, giàu cảm xúc.

c) Kết bài

– Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật 12 câu thơ đầu bài Trao duyên.

-Nêu cảm nhận của em về đoạn thơ.

Video cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên

Video Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 1

Truyện Kiều trong nền văn học trung đại cũng như trong cả nền văn học Việt Nam được xem là một kiệt tác văn học có nhiều giá trị. Làm nên giá trị của truyện không chỉ bởi nghệ thuật đặc sắc mà còn bởi nội dung có nhiều nét tiến bộ, được xem là bước đi vượt bậc gần hai trăm năm của Nguyễn Du trong giới văn nhân nho sĩ thời bấy giờ. Với nhân vật trung tâm là nàng Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn cùng với cuộc đời 15 năm sóng gió vô định của nàng, Nguyễn Du đã lột tả được những hiện thực tàn nhẫn, thối nát của xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện các giá trị nhân đạo sâu sắc khi coi trọng đề cao vẻ đẹp của con người, xót thương cho những số phận nhiều đớn đau, bất hạnh, được biết là người phụ nữ trong xã hội cũ. Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn trích đặc sắc của Truyện Kiều, ở 12 câu đầu tác giả đã nêu bật được vẻ đẹp sắc sảo, thông minh vốn sẵn tính trời của Thúy Kiều, cũng như cách nàng mạnh mẽ chống chọi với đợt sóng gió đầu tiên trong cuộc đời.

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Thúy Kiều quả là một nhân vật nữ có nhiều bất hạnh trong cuộc đời, những bi kịch của nàng hầu như bao gồm tất cả những nỗi đau mà người phụ nữ trong xã hội cũ phải gánh chịu. Từ nỗi đau thân phận bọt bèo không có tiếng nói, bị cường quyền chèn ép dẫn tới nhà tan cửa nát đến nỗi đau bán thân làm lẽ cho người, chịu cảnh chồng chung, rồi nỗi đau ly biệt với người mình yêu thương, buộc phải từ bỏ tình yêu vì chữ hiếu, cho đến cuối cùng là nỗi đau bị sỉ nhục, chà đạp ở chốn phong trần, thanh y hai lượt thanh lâu hai lần đầy tủi hổ. Kiều có một xuất phát điểm cao, con nhà giàu có, sống trong nhung lụa ngọc ngà lại có một tình yêu đẹp với Kim Trọng.

Vốn mọi sự đang diễn ra êm đềm thì bất ngờ gia biến xảy đến, cha và em của Thúy Kiều bị vu oan rồi tống giam, tất cả tài sản đều bị tịch thu. Đối diện với biến cố lớn như thế, Kiều không còn cách nào khác chỉ đành nhờ người mối mai bán mình, để kiếm tiền cứu cha và em, đồng thời bội ước với Kim Trọng. Sau khi đã giải quyết xong chuyện nhà, cha và em được cứu, Kiều mới quay lại nhìn về tình yêu dang dở của mình. Nhớ đến Kim Trọng, Kiều lại càng đau khổ và dằn vặt trong suy nghĩ vì nghĩ bản thân đã làm chuyện có lỗi với người yêu. Trong lúc ấy nàng hết lòng suy nghĩ chuyện tạ lỗi, cũng như bù đắp cho chàng Kim, để trả món nợ duyên tình gãy gánh, cuối cùng nàng mới nghĩ ra một cách là nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng, nhờ em gái giúp mình chăm sóc đỡ đần chàng Kim một đời. Tuy nhiên việc gán ghép, tình chị duyên em ấy không phải là dễ mở lời, đặc biệt khi Thúy Vân còn quá nhỏ để hiểu hết những nỗi đau khổ, dằn vặt trong lòng Kiều. Biết vậy Thúy Kiều đã gọi em gái đến và lựa lời nhờ cậy rằng:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Kiều rất khéo léo khi sử dụng hai chữ “cậy” và “chịu”, “cậy” mang nghĩa nhờ cậy, thể hiện tấm lòng tha thiết, mong đợi được giúp đỡ, gần như là khẩn khoản xin Vân nhận lời. Trong khi đó “chịu” lại ngầm thể hiện sự khó khăn của việc trao duyên cho Vân, cũng như chuyện Vân đồng ý là không dễ dàng, bộc lộ sự thấu hiểu và khó xử của Thúy Kiều khi phải mở lời cậy nhờ em gái. Tiếp đến hành động bảo em gái ngồi lên ghế sau đó cúi lạy lại cũng là một cử chỉ tinh tế, Kiều làm vậy không chỉ muốn đưa Thúy Vân vào thế không thể từ chối lời chị mà còn bày tỏ tấm lòng thành của nàng trước Thúy Vân, rằng bản thân đã nợ em gái một lần ân nghĩa mà cả đời cũng không thể trả, chỉ mong rằng sau lần vái lạy, mong Vân hãy nể tình ruột thịt mà đồng ý giúp đỡ.

Thấy những hành động trang trọng, khác thường của chị, bản thân Thúy Vân dù chưa hiểu chuyện gì thế nhưng mặc nhiên là nàng khó có thể mở lời từ chối, bởi lẽ Kiều dường như là đang ngầm cầu xin Thúy Vân giúp đỡ, lấy thân phận của người chịu ơn nói với em gái. Sau đó nữa Kiều đã thẳng thắn nói với Vân”

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Giọng điệu quyết đoán, mạnh mẽ khẳng định mối duyên với Kim Trọng đã “đứt gánh”, mong rằng từ nay Vân sẽ thay mình “chắp mối” duyên tình dang dở. Kiều cũng thấu hiểu nỗi băn khoăn và khó xử của Thúy Vân, nàng lại ôn tồn, lặng lẽ kể lại câu chuyện tình yêu tốt đẹp của mình với chàng Kim:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”,

Câu thơ bộc lộ tình yêu sâu sắc, lời hẹn thề ước định chung thân, mối nhân duyên tốt đẹp chỉ chờ ngày đơm hoa kết trái. Thế nhưng đớn đau thay “Sự đâu sóng gió bất kỳ/Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”. Đứng giữa chữ hiếu và chữ tình Kiều đành chọn gia đình, chọn bội ước, từ bỏ tình yêu để cứu cha và em, dù đau xót nhưng Kiều cũng chẳng thể làm khác. Nói đến đây, phận là em, là con trong gia đình hẳn Thúy Vân lại càng thấu hiểu và thông cảm cho những nỗi khổ tâm của chị mình, có lẽ lòng nàng cũng dần xuôi theo ý định của Thúy Kiều. Nhưng Kiều không dừng lại ở đó, nàng cũng bộc lộ tấm lòng thông cảm cho Thúy Vân, khi thấy em phải thay mình lấy Kim Trọng, một người mà cô không thương, phải gắn bó cả cuộc đời mà không nắm chắc được hạnh phúc điều ấy được thể hiện trong câu nói của Thúy Kiều rằng “Ngày xuân em hãy còn dài”. Ý chỉ Thúy Vân cuộc đời tươi đẹp hãy còn đang chờ ở phía trước, dù rằng có thể khởi đầu này không phải là khởi đầu mà nàng hoàn toàn mong đợi, thế nhưng ít ra có lẽ nàng vẫn được một chút bình yên. Câu thơ cũng thể hiện nỗi chạnh lòng xót xa của Kiều khi đối diện với thực tại, khi phải trao duyên cho em gái, tuổi xuân của Vân còn dài, vậy của nàng chẳng lẽ ngắn, ấy thế nhưng cuối cùng nàng vẫn phải chịu bất hạnh, phải rời xa quê hương, chịu cảnh làm thiếp thất, nói không đau, không sầu khổ thì là nói dối. Trong nỗi đau đớn, dằn vặt ấy Kiều tiếp tục nỉ non từng lời với Thúy Vân:

“Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Câu thơ là những lời khẩn khoản, thiết tha nhất mà Kiều dành cho em gái, cũng là biện pháp hữu hiệu cuối cùng để khiến Thúy Vân mềm lòng đồng ý lấy Kim Trọng. Kiều đã khéo léo đánh vào tâm lý của em gái, khi đề cập đến tình chị em ruột thịt, mong em gái thương xót mình mệnh khổ. Không chỉ thế lời Kiều ai oán, thê lương, càng đem đến hiệu ứng dường như ấy là lần cuối cùng Kiều nhờ vả Thúy Vân. Mà chỉ khi hoàn thành chuyện này, thì lòng nàng mới thôi day dứt, mới có thể yên tâm rời đi, cho dù “thịt nát xương mòn” hay về nơi chín suối Kiều cũng chấp nhận. Chỉ mong rằng có thể trả hết nợ ân nghĩa thế gian, trước là cha mẹ, sau là người yêu mà Vân là người duy nhất Kiều có thể tin tưởng và nhờ cậy chuyện trọng đại như này. Cũng hy vọng rằng chàng Kim Trọng một khi quay lại, không tìm thấy nàng thì cũng bớt đi phần đau khổ, mà có thể bắt đầu cuộc sống mới với Thúy Vân, một đời hạnh phúc ấm êm.

Mười hai câu đầu của đoạn trích Trao duyên đã bộc lộ rõ tính cách, cũng như sự thông minh, quyết đoán, khéo léo và mạnh mẽ của Thúy Kiều trong công cuộc thuyết phục trao duyên cho em gái, trả món nợ ân tình với Kim Trọng. Đồng thời cũng bộc lộ những nỗi đau khổ, dằn vặt sâu sắc của nàng khi bên này vừa từ bỏ tình yêu, chấp nhận bán thân làm lẽ để cứu cha, thì ngay sau đó lại phải nhọc lòng suy nghĩ việc bù đắp, tạ lỗi với chàng Kim, vẻ đẹp nhân cách đáng quý, sống có tình có nghĩa trước sau của Thúy Kiều, xứng với cái danh tài sắc vẹn toàn của nàng.

văn mẫu 3.pdf (ảnh 1)

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 2

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những kiệt tác nổi bật góp phần làm nên diện mạo, đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao của của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm với 3254 câu thơ lục bát viết về cuộc đời chìm nổi của người con gái tài sắc nhưng bạc mệnh Thúy Kiều. Nhiều đoạn trích của thi phẩm được đưa vào chương trình SGK để dạy và học trong nhà trường, Trao duyên là một trong những đoạn trích như vậy. Trích đoạn đã tái hiện lại bi kịch tình yêu đầy đau đớn Thúy Kiều, qua đó thể hiện sự trân trọng, đồng cảm của tác giả Nguyễn Du với tình duyên dang dở và cuộc đời đầy sóng gió của nàng Kiều. Mười hai câu đầu đoạn trích đã thể hiện rõ điều đó.

Thúy Kiều và Kim Trọng tình cờ gặp nhau, họ đem lòng cảm mến và dành cho nhau tình cảm đặc biệt. Vượt qua những quy định của lễ giáo phong kiến, Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để tới gặp mặt, kết tóc thề nguyện cùng Kim Trọng. Tình yêu của họ là nhân duyên tiền định, vốn sẵn đẹp đẽ và có thể dài lâu, thế nhưng, phận đời trớ trêu, dòng người xô đẩy, Kiều đành ngậm ngùi quyết định “trao” lại mối duyên của mình cho Thuý Vân. Sau một đêm trắng suy nghĩ, Kiều chua xót nhờ cậy em:

“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

“Cậy” ở đây là cậy nhờ, là lời thỉnh cầu, trông mong được giúp đỡ. Từ “cậy” chứa đựng cả niềm hy vọng, tin tưởng của người nhờ vả vào người được nhờ. Từ “chịu” thể hiện sự khẩn thiết, Kiều như đang van nài, cầu xin em, đặt Thuý Vân vào tình thế khó lòng từ chối. Hành động “lạy”, “thưa” kết hợp cùng lời nói của Kiều cho thấy được sự khéo léo, chân thành của nàng khi nhờ cậy em. Kiều là chị, Vân là em, lẽ thường thì chị chẳng lạy thưa em bao giờ nhưng trong tình cảnh này Kiều lại làm như vậy lại mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc bởi lúc này Kiều đang là người nhờ vả, đang chịu ơn em. Nàng không muốn phụ tấm chân tình của Kim Trọng nhưng cũng hiểu rằng việc trao lại mối duyên dang dở sẽ mang đến sự khó xử, thiệt thòi cho Thúy Vân.

Tình yêu vốn là tình cảm thiêng liêng, khi yêu chẳng ai muốn san sẻ tình yêu của mình cho người khác, thế nên hành động trao duyên của Thúy Kiều cũng không hề dễ dàng. Nàng mở lời cậy nhờ em, mong em nhận lời, nàng tâm sự cùng Vân:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”

Trong nỗi đau xót của tình yêu đứt gánh, keo loan ngỡ trăm năm vậy mà đành nhớ em “chắp mối”. Hai tiếng “mặc em” cất lên là cả sự tin tưởng, phó mặc cho Vân, mong cầu Vân sẽ cùng chàng Kim kết lại keo loan bền chặt ấy. Trong nỗi đau chia sẻ tình yêu, bao kỉ niệm tươi đẹp của khoảng thời gian hạnh phúc ùa về trong tâm trí. Điệp từ “khi” kết hợp với các cụm động từ “gặp chàng Kim”, “quạt ước”, “chén thề” cho thấy tình yêu bền chặt, thắm thiết của Kiều- Kim. Nhưng hiện thực phũ phàng, trêu ngươii, tình yêu đành dang dở vì sóng gió ập đến với gia đình nàng. Kiều đau đớn bởi tình yêu tan vỡ, thân phận trớ trêu:

“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Để trọn đạo làm con, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em, gìn giữ ấm êm gia đình. Giữa chữ tình và chữ hiếu, Kiều chọn chữ hiếu bởi công lao dưỡng dục nghìn nặng trăm sâu, Kiều nào thể dứt bỏ. Nàng không đành lòng lựa chọn hạnh phúc riêng mà quay lưng với biến cố của gia đình. Bởi thế mà nàng đau đớn khôn nguôi, tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở đây thôi lại vội vàng vỡ tan, trai tim nàng như rỉ máu vì tình yêu tan vỡ, xót xa, đau đớn vô cùng. Cậy nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng cũng là để lòng nàng được vơi chút bận tâm khi đang trong nỗi mặc cảm của một kẻ phụ tình. Hết lòng thuyết phục Vân, nàng mong em gái mình có thể hiểu và chấp nhận lời thỉnh cầu, dẫu biết điều đó thật khó cho Vân:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Bằng sự thông minh, suy nghĩ thấu đáo của mình, Kiều đã khéo léo đưa ra ba lý lẽ để thuyết phục Vân. Trước hết là Vân có thanh xuân, Vân còn trẻ, Vân sẽ có thời gian để cùng Kim Trọng tìm hiểu mà kết tóc se duyên trong đoạn cuộc đời còn lại. Hơn nữa, Kiều và Vân lại là chị em ruột thịt, Vân nào có thể đành lòng nhìn chị khổ đau, dằn vặt trong mặc cảm tội lỗi phụ bạc tình yêu. Cuối cùng, nàng nói về cái chết của bản thân, một niềm vui tìm thấy trong nỗi đau của cái chết “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, nếu được Vân chấp thuận thì dù có phải chết, Kiều cũng an lòng mà nhắm mắt. Từng lời lẽ của Thuý Kiều thốt ra đều hợp lẽ, hợp tình, Kiều dằn lòng gặm nhấm nỗi đau thương, chịu thua thiệt về bản thân mình, chỉ mong Vân giúp mình cùng Kim Trọng kết duyên để bù đắp cho người mình thương. Mặc cảm tội lỗi dường như đang bao vây lấy tâm trí và trái tim nhỏ bé nơi Kiều. Lời nhờ cậy và thuyết phục Vân của Thuý Kiều thật cảm động, chân thành , tha thiết biết bao.

Bằng 12 câu thơ lục bát cùng cách sử dụng ngôn từ tinh tế, chọn lọc, Nguyễn Du đã khắc hoạ thành công bi kịch tình yêu và tâm trạng đau đớn của Thuý Kiều trong cơn nguy nan của số phận.

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 3

Truyện Kiều là một kiệt tác văn học của Đại thi hào Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam. Tác phẩm mang nhiều giá trị nhân đạo khiến độc giả phải suy ngẫm. Một trong những đoạn trích nổi bật lột tả rõ nét nội tâm nhân vật Thúy Kiều chính là đoạn trích “Trao duyên.”
Khi gia đình gặp nạn, để giải cứu cho cha và em trai, Thúy Kiều buộc phải trao lại mối duyên của mình cho Thúy Vân:

“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

“Cậy, lạy, thưa” là những từ mà người ở vai dưới nói chuyện với người vai trên. Những từ ngữ này thể hiện sự tôn trọng đặc biệt của Kiều dành cho người em gái mà mình nhờ vả. Dù mình ở vai trên nhưng Kiều không dùng sự ra lệnh đối với em. Tuy trong lòng cô nhiều suy nghĩ, trăn trở nhưng vẫn bình tĩnh xử lí, sắp xếp, thu vén chuyện của mình.

“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”

Kiều trình bày với em về hoàn cảnh của mình, về mối tình dang dở của mình với chàng Kim và mong em hãy thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà chấp nhận mối tơ thừa của chị. Hai người đã có những hẹn thề gắn bó dài lâu nhưng nay Kiều không giữ lời hứa đó. Bởi lẽ, nàng không thể hoàn thành cả “chữ hiếu” lẫn “chữ tình”; nên “chữ tình” này, xin gửi lại để Vân thay chị thực hiện. Từng lời nói của Kiều là nỗi đau khổ, day dứt mà nàng đang phải trải qua. Nào ai muốn nhìn thấy cha và em trai bị oan trong tù? Nào ai muốn rời bỏ người mình yêu thương khi tình cảm rất mặn nồng? Ta càng thêm thương xót cho nàng Kiều bạc mệnh.

“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Vân còn trẻ, đang trong độ tuổi xuân thì, chàng Kim lai là tài tử hiếm có, nếu Vân thay Kiều đến với Kim Trọng thì nàng Kiều sẽ yên tâm mà ra đi vì dù sao đi chăng nữa Vân với Kiều cũng cùng chung giọt máu. Để cảm kích sự đồng ý của Vân, dù cho Kiều có ‘thịt nát xương mòn” nơi đất khách quê người nàng cũng yên tâm mà ra đi, không còn suy tư trăn trở.

Đoạn thơ gây ám ảnh người đọc bởi nó làm hiện ra trước mắt chúng ta một bức tranh như thực về nàng Kiều trọng tình, trọng nghĩa, ta phần nào hiểu thêm, đồng cảm, thương xót cho số phận một cô gái “hồng nhan bạc mệnh.”

Điểm nổi bật làm nên thành công vang dội của tác phẩm đó chính là thể thơ lục bát dân gian của dân tộc. Đoạn trích sử dụng những câu cảm thán đã khắc họa thành công tâm trạng, nỗi lòng của Thúy Kiều khi trao mối duyên của mình cho Thúy Vân.

Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp một phần không nhỏ vào việc làm đa dạng nền văn hóa dân tộc. Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn trích “Trao duyên” cùng tác phẩm Truyện Kiều vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

văn mẫu 3.pdf (ảnh 2)

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 4

Cả cuộc đời trải qua biết bao thăng trầm sóng gió, Nguyễn Du đã đúc kết kinh nghiệm quý báu làm nên tiếng vang lớn cho hậu thế qua tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi là Truyện Kiều. Dưới ngòi bút tài hoa, một xã hội thê lương tàn bạo bị chi phối bởi đồng tiền, đẩy con người đến tận cùng đau khổ được lột tả khéo léo thông qua thân phận người phụ nữ đó là nàng Thúy Kiều. “Trao duyên”, tuy chỉ là đoạn trích ngắn nhưng đã phản ánh những bất hạnh chân thực nhất trong cuộc đời của Thúy Kiều. Đây là đoạn trích vô cùng ấn tượng và đặc sắc trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du.

Thúy Kiều với Kim Trọng, một mối tình giữa quân tử và giai nhân tưởng đẹp đẽ nhưng cũng chỉ là hoa trong gương, trăng dưới nước. Gia biến ập đến, nàng Kiều phải buộc lòng từ bỏ đoạn duyên thề hẹn chưa kịp “phỉ nguyền” với Kim Trọng để đi lấy Mã Giám Sinh.

Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?

Vì đạo hiếu, Kiều bán mình chuộc cha thế nhưng nghĩ đến người mình yêu lại không đành lòng để chàng đau đáu ngóng trông, lại đành lòng trao duyên cho Thúy Vân. Đó là nỗi đau thương cắt từng khúc ruột, nỗi đau âm ỉ chua xót trải dọc suốt 12 câu đầu của đoạn trích “Trao duyên”. Mở đầu đoạn, khung cảnh trở nên não nề và trầm lắng khi Thúy Kiều mở lời cậy nhờ Thúy Vân:

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Thúy Kiều, trên cương vị một người chị sao có thể cậy nhờ, lạy thưa với em? Xã hội thời xưa rất coi trọng tôn ti nhưng Nguyễn Du lại để Thúy Kiều sử dụng kính ngữ với Thúy Vân, đó là dụng ý vô cùng tài hoa của tác giả. Nguyễn Du sử dụng từ “Cậy” gửi gắm trong đó là sự tin tưởng, trân trọng và cả lòng biết ơn của Thúy Kiều đối với em gái khi gửi gắm lại mối duyên dang dở với Kim Trọng. “Cậy em em có chịu lời”, câu thơ vừa mang ý khẩn thiết cầu xin, nhờ vả trịnh trọng nhưng lại đặt Thúy Vân ở thế khó xử trước thỉnh cầu của người chị, đó như là sự gượng ép, càng khẳng định mối tình thâm của Thúy Kiều với Kim Trọng, không muốn vì chuyện của mình mà phụ lòng chàng Kim. Thúy Kiều hạ thấp vai vế của mình, đứng trên vị trí của người đi nhờ cậy “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. “Lạy” là hành động tôn kính, ghi ân thường chỉ có cha mẹ, thầy giáo mới có thể nhận, nhưng Kiều lạy em gái mình, đó là cái lạy đối với ân nhân. “Lạy rồi thưa”, ngôn ngữ sử dụng vô cùng trang trọng, như cái lễ ràng buộc khiến Vân không thể chối từ.

Sau khi sử dụng hàng loạt các hành động, ngôn ngữ trang trọng như vậy, Thúy Kiều mới giãi bày câu chuyện của mình với Thúy Vân, mong rằng em có thể thay chị yêu thương, chăm sóc, chắp tiếp đoạn duyên với Kim Trọng:

Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Duyên tình đến nửa chừng đứt đoạn, thành ngữ “đứt gánh tương tư” như một lời than cay đắng tưởng niệm mối tình không trọn. Sóng gió đã cướp đi hạnh phúc đáng lẽ thuộc về Kiều, để nàng chơ vơ giữa đoạn đường còn tình cảm, còn nhung nhớ ngập ngụa những khổ đau thống thiết khi phải xa lìa yêu thương. Chữ “tương tư” như tiếng sóng ngầm khắc khoải, day dứt mang theo cả tuyệt vọng. Tác giả còn sử dụng điển tích “keo loan” để mong muốn duyên sau với Thúy Vân sẽ bền chặt, mong rằng Thúy Vân sẽ bằng lòng nhận lấy đoạn duyên này. Thúy Kiều biết, đó là “mối tơ thừa”, là chuyện tình dang dở của mình nên em gái sẽ có phần thiệt thòi nên mới thốt lên từ “mặc”, ý rằng để Vân được tự mình định đoạt.

Gửi duyên cho Vân thế mà nỗi nhớ mong về ngày xưa năm cũ cứ thế mà trỗi dậy trong lòng Kiều, ký ức như một bộ phim tua lại, rõ ràng tràn đầy nhung nhớ giữa bể khổ trần ai:

Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Từ “khi” điệp lại đến ba lần, mở ra từng mốc thời gian Thúy Kiều gặp được Kim Trọng, tất cả những kỷ niệm, vui mừng, đính ước, thề hẹn đều rõ ràng đến vậy. “Ngày quạt ước”, “đêm chén thề”, ngày và đêm, không gian và thời gian cứ như tuần hoàn liên tục, đó là khi họ bầu bạn đối thơ, ngắm trăng, uống rượu, trao nhau vật đính ước… Có bao giờ Kiều quên được điều đó, nỗi nhớ ấy như con dao khứa sâu, chỉ có thể lần cuối nhớ lại trong ký ức đẹp nhất, khi Kiều vẫn còn chưa thuộc về Mã Giám Sinh. Chắc gì về sau còn được cảm thấy hạnh phúc khi nhớ lại, có khi nó còn trở thành niềm day dứt, khổ sở và bi thương của nàng Kiều.

Tiếp đó, Nguyễn Du khéo léo để Kiều nhắc lại “cơ sự cho nên nỗi này” để mối tình đẹp như hoa mộng của Kiều phải chia xa:

Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

“Sóng gió” ấy là phong ba ập lên đầu gia đình Kiều, cha và em bị bắt còn Kim Trọng phải về quê chịu tang, hai ngả hai nơi, một bên là hiếu, một bên là tình, thật vô cùng khó xử. Bán mình chuộc cha, phụ tình cảm thủy chung bấy lâu nay mà người thương hết lòng dành cho nàng. Vì tình phụ hiếu, sau này sao có thể ngửa mặt nhìn đời, đối diện với cha mẹ trong nhà, với dòng họ, tổ tiên. Làm thế nào, cũng khó có thể vẹn toàn. “Hai bề vẹn hai” đó là điều khó khăn nhất trong sự nguy ngập với tính mạng của cha và em. Đó mãi là câu hỏi đau đớn xoáy sâu vào lòng Kiều, nàng biết, không có cách nào vẹn cả đôi đường. Nỗi đau ấy đang ngày đêm làm Kiều khổ sở, Kiều như phơi bày ruột gan, bộc bạch tất cả nỗi niềm mong rằng Thúy Vân có thể hiểu lòng chị mà giúp cho tình duyên này không đến mức phải phụ lòng.

Hơn thế, Thúy Kiều còn dùng lý lẽ thích đáng để thuyết phục Vân có thể nhận lời:

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non

Phải, Thúy Vân còn trẻ, năm tháng dài rộng, cho dù tình cảm với Kim Trọng khuyết thiếu có thể bù đắp còn hơn người chị đã rời xa. Từ “xót” cùng với cụm từ “tình máu mủ” như chạm vào tình cảm huyết thống mà Thúy Vân có với Thúy Kiều, của chị cũng là của em, chúng ta là máu mủ ruột thịt hãy thương lấy nhau. Mong rằng Thúy Vân niệm tình máu mủ yêu thương lo toan bao nhiêu năm mà thay chị gánh vác lời thề “nước non” với Kim Trọng. Lý do Kiều đưa ra vừa hợp lý vừa hợp tình.

Không những vậy, nỗi lo sợ về cái chết không còn có cơ hội trở lại càng trở thành lý do thuyết phục hơn với Thúy Vân:

Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Việc trả nghĩa trả tình cho Kim Trọng quan trọng hơn cả tính mạng của Kiều. Khi chết, con người trở về với cát bụi, không còn liên quan đến thế gian này nữa nhưng tâm nguyện của họ vẫn còn vang vọng đâu đây. Tâm nguyện của Kiều là mong mỏi em mình nối duyên với chàng Kim, chỉ có vậy nàng mới có thể “ngậm cười chín suối”. Câu thơ như là lời trăn trối của Kiều sợ rằng sau này không thể gặp lại được Kim Trọng. Cũng vì lấy cái chết, lấy tâm nguyện của một kẻ sắp chết nên lời thỉnh cầu càng thêm nặng khiến cho Thúy Vân không thể khước từ.

Tuy rằng lấy tên là “Trao duyên” nhưng đó lại là cái duyên ép uổng mà Thúy Kiều để lại cho em mình, đó là nỗi đau bất đắc dĩ vì chọn đạo hiếu cao hơn tình yêu mà Kiều phải chấp nhận. Xuyên suốt đoạn trích là sự oan ức, thống khổ, không nỡ chia lìa của Thúy Kiều. Cho dù để lại đoạn duyên chắp nối cho em, âu cũng là điều không đành lòng.

Bằng nghệ thuật độc đáo, ngôn từ bậc thầy, giọng thơ đi sâu vào lòng người, Nguyễn Du đã lột tả trọn vẹn nỗi đau và câu chuyện của Thúy Kiều khi gửi gắm mối duyên với Kim Trọng trong 12 câu thơ đầu đoạn trích “Trao duyên” (Đoạn trường tân thanh). Đó còn là tiếng kêu than về một xã hội thối nát, làm cuộc sống của người dân vô tội điêu đứng đồng thời là sự bất bình, lòng thương cảm cho thân phận của người phụ nữ đương thời mỏng manh như bèo nước, chịu nhiều oan trái khổ đau.

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 5

Đại thi hào Nguyễn Du là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của Nguyễn Du gắn liền với “Truyện Kiều”, một trong những tác phẩm nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Được viết dựa trên cốt truyện của “Kim Vân Kiều truyện”, “Truyện Kiều” phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, một xã hội mục nát bất công, nhẫn tâm dồn ép nhân dân vào bước đường cùng. Tuy chỉ là một đoạn trích ngắn từ “Truyện Kiều”, song “Trao duyên” vẫn thể hiện đầy đủ chủ đề của tác phẩm. Sống trong thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, nhân vật chính Thúy Kiều bị ép phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em trai, phải từ bỏ tình cảm của mình với Kim Trọng, trao lại duyên tình dang dở ấy cho Thúy Vân dù trong lòng có bao nỗi đau xót. Nỗi đau ấy được khắc họa rõ nét nhất qua mười hai câu đầu của đoạn trích:

“Cậy em em có chịu lời,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Nhan đề đoạn trích là “Trao duyên” nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, “trao duyên” ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, Thúy Kiều nghĩ đến Kim Trọng, nghĩ đến việc mình đã không giữ trọn lời đính ước với người yêu, băn khoăn thức trắng đêm nghĩ cách trả nghĩa cho chàng, cuối cùng đành nhờ cậy em là Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng.

Mở đầu đoạn thơ là lời thỉnh cầu chân thành tha thiết của Kiều:

“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Nguyễn Du là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ, điều đó có thể dễ dàng thấy được qua hai câu thơ trên. “Cậy” và “nhờ” đều có nghĩa là nhờ vả, xin sự giúp đỡ của một ai đó, nhưng thay vì sử dụng từ “nhờ”, Nguyễn Du đã khéo léo chọn từ “cậy”, bởi vì từ “cậy” này có nghĩa là nhờ với tất cả sự hi vọng và tin tưởng, nét nghĩa này từ “nhờ” không thể hiện được. Cũng như vậy, thay vì từ “nhận”, tác giả lại dùng từ “chịu” bởi vì khác với từ “nhận”, từ “chịu” không chỉ thể hiện sự đồng ý, nhận lời mà còn kèm theo ý bắt buộc, khiến cho người được nhờ vả khó nói lời từ chối. Cách tác giả dùng từ rất chính xác, bởi lẽ đây là chuyện rất quan trọng đối với Kiều, nàng hi vọng Thúy Vân đồng ý, nên lời van nài cũng có chút ép buộc. Tuy Kiều cũng hiểu việc nhờ Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng là hết sức vô lí, nhưng nàng vẫn quyết tâm muốn trả nghĩa cho người yêu, bỏ qua lẽ thường, nàng “lạy” và “thưa” đối với em mình. Kiều dùng chính lễ nghi lạy trước thưa sau, thay bậc đổi ngôi này để ràng buộc Vân. Trong tình thế vừa tình vừa lễ như vậy, Vân sao có thể không nhận lời?

Lạy xong, Kiều mở lời giãi bày hoàn cảnh của mình với em, nói ra ý định muốn em kết duyên với Kim Trọng:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Thành ngữ “đứt gánh tương tư” có ý chỉ tình yêu dang dở. Tình cảm của Kiều với Kim Trọng chưa kịp tới hồi viên mãn thì sóng gió đã ập tới, đành phải dở dang, Kiều đau khổ biết mấy, nhưng đành ngậm ngùi trao lại cho em. Nàng dùng điển tích về “keo loan” để thể hiện ý định muốn Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Không những thế, nàng cũng bày tỏ sự ray rứt đối với em, đem mối tình sâu đậm của nàng biến thành một mối “tơ thừa” giao phó cho Thúy Vân, “mặc” cho Thúy Vân định liệu.

Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về khiến nàng đau đớn khôn nguôi, nàng không dằn được lòng mình, tâm sự với em:

“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”

Từ “khi” được lặp lại ba lần gợi cho người đọc nghĩ đến tình cảm sâu nặng giữa Kiều với chàng Kim, nhớ đến những kỉ niệm đẹp của hai người. Với nghệ thuật liệt kê “ngày quạt ước”, “đêm chén thề” những kỉ niệm đẹp đẽ ấy trở nên sống động hơn trong lòng Kiều. Những kí ức ấy vốn rất ngọt ngào, giờ đây khi nhớ đến lại trở thành một nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng nàng, đặc biệt là khi nghĩ đến nguyên nhân của nỗi đau này:

“Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều lại bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, cách duy nhất để cứu họ là nàng phải bán mình, đồng nghĩa với việc nàng phải làm trái với lời hẹn ước trước kia với người yêu. Hoàn cảnh trái ngang quá, giữa hai lẽ “hiếu” và “tình”, Kiều chỉ có thể chọn một. Nàng dằn vặt nội tâm, day dứt đau đớn, cuối cùng đành hi sinh tình yêu của mình để làm tròn chữ hiếu. Nàng tỏ nỗi lòng với Vân, dùng nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, hy vọng em mình có thể thấu hiểu cho và chấp nhận yêu cầu của mình.

Đã tỏ bày nỗi lòng nhưng vẫn sợ Vân không đồng ý, Kiều lại dùng lí lẽ để thuyết phục em:

“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Để thuyết phục em, Kiều không tiếc viện đến tình máu mủ, cùng với cả cái chết. Các thành ngữ “tình máu mủ”, “lời nước non”, “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” được dùng đến trong bốn câu thơ trên thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em cho bằng được của Kiều. Đối với nàng, việc trả nghĩa cho Kim Trọng còn quan trọng hơn cả mạng sống, chỉ cần Vân kết duyên với Kim Trọng, cho dù có chết đi thì Kiều cũng thấy được an ủi, mãn nguyện. Chính sách viện đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến cho Vân chẳng thể nào từ chối lời khẩn cầu của nàng.
Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với ngôn ngư bình dân, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm trạng dằn vặt, đau đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu của Kiều, khiến hình tượng của nàng trở nên đẹp đẽ hơn trong lòng người đọc. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình.

Thông qua việc thể hiện nỗi đau của Kiều khi phải trao duyên tình dang dở của mình cho em, “Trao duyên” mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, bị chính đồng tiền dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát. Chính giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc ấy mà đoạn trích, cũng như “Truyện Kiều” đã để lại trong lòng nhiều thế hệ độc giả ấn tượng sâu sắc.

văn mẫu 3.pdf (ảnh 3)

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 6

Nhà thơ Nguyễn Du là một đại thi hào của nước ta. Ông đã để lại nhiều bài thơ hay bất hủ vượt qua mọi sự cách trở của thời gian. Trong đó, Truyện Kiều là một tác phẩm vô cùng kiệt xuất của tác giả Nguyễn Du.

Trong đó, đoạn trích Trao duyên là một đoạn trích thể hiện tấn bi kịch trong lòng của nhân vật chính Thúy Kiều khi phải đấu tranh giữa bên hiếu, bên tình. Cuối cùng Thúy Kiều lựa chọn hy sinh thân mình để bảo vệ hạnh phúc cho gia đình chuộc cha và em trai ra khỏi chốn lao tù.

Đoạn trích Trao duyên nói lên sự bi kịch của người phụ nữ khi tình duyên dang dở, nhất là 12 câu thơ đầu trong đoạn trích đã khắc họa thành công sự đau thương trong lòng của Thúy Kiều:

“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
……
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Trong 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao duyên này thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi làm chị nhưng lại phải nhờ vả cậy nhờ em mình. Những lời tâm sự rút gan rút ruột của Thúy Kiều cho thấy sự đau khổ của người con gái phải rời xa mối tình tâm đầu ý hợp của mình. Khi tình duyên dang dở Thúy Kiều quyết định từ bỏ tình yêu, từ bỏ Kim Trọng để bán mình chuộc cha.

Thúy Kiều thương cho Kim Trọng sợ chàng sau khi mãn tang chú quay lại tìm nàng thì biết tin nàng bặt vô âm tín sẽ đau buồn lắm. Thúy Kiều là người suy nghĩ sâu sắc nên nàng đã nhờ em gái của mình là Thúy Vân thay nàng chăm sóc an ủi Kim Trọng theo cách “Tình chị duyên em”.
Trong câu thơ “Cậy em em có chịu lời – Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” thể hiện sự thành khẩn của Thúy Kiều khi gửi trao tâm nguyện của mình lại cho cô em gái Thúy Vân. Thể hiện tâm trạng vô cùng đau khổ của cô với việc lựa chọn này.

Trong mỗi câu thơ Thúy Kiều như đứt từng khúc rút để nói lại với em gái của mình. Thúy Kiều đã dùng những từ ngữ vô cùng sâu sắc như “Giữa đường đứt gánh tương tư” thể hiện sự bất lực không còn con đường nào lựa chọn, nên buộc lòng cô phải nhờ cậy tới Thúy Vân.

Dù muốn trao duyên của mình cho em gái nhưng trong lòng Thúy Kiều đè nặng những đau đớn, tương tư trong lòng. Bởi những kỉ niệm yêu thương ngọt ngào vẫn còn khắc cốt ghi tâm trong lòng Thúy Kiều. Kim Trọng là người con trai mà Thúy Kiều thật lòng yêu thương, muốn trao gửi cả cuộc đời mình vào tay người con trai đó, cùng chàng đi tiếp chặng đường tương lai nhưng giờ phải lựa chọn từ bỏ trái tim nàng đau khổ như chết đi sống lại.

Trong 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên thể hiện sự bất lực, bất khả kháng của người con gái Thúy Kiều khi mà sóng gió gia đình bất ngờ ập tới khiến gia đình cô gặp cảnh tai biến không hiểu nguyên do từ đâu. Trước người cha tuổi cao sức yếu và người em trai tình thân như thủ túc, Thúy Kiều là chị cả nàng không thể thấy cha và em mình bị giam cầm mà dửng dưng sống hạnh phúc bên người mình yêu, bỏ mặc sự sống chết của người thân.

Sự lựa chọn của Thúy Kiều cho thấy nàng là người vô cùng sâu sắc, hiếu thuận với cha mẹ, cũng là người có tình, biết lo lắng cho người khác, luôn đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để nghĩ cho người đó. Trong khi đó bản thân nàng tương lai như thế nào nàng cũng không rõ, con đường phía trước mù mịt, mịt mờ nhưng nàng cũng cam tâm tình nguyện ra đi vì người thân.

Trong những câu thơ tiếp theo:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”

Thúy Kiều kể lại những kỉ niệm thời còn hẹn hò giữa nàng và Kim Trọng, mỗi câu thơ đều thể hiện sự tâm đầu ý hợp giữa hai người. Một mối tình trai tài gái sắc vô cùng đẹp đôi, xứng đôi vừa lứa. Nhưng vì sóng gió, tai biến gia đình mà Thúy Kiều buộc lòng phải từ bỏ.

Thúy Kiều mong Thúy Vân vì tình cảm chị em máu mủ mà nhận lời nhờ cậy của mình, chăm sóc Kim Trọng thay mình, yêu thương chàng tiếp tục cùng chàng sánh duyên thay cho mình. Điều này cho thấy sự tình nghĩa của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng là vô cùng sâu sắc.

Chỉ với 12 câu thơ nhưng tác giả Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều khi phải dứt tình ra đi, để giữ trọn chữ hiếu với gia đình, cứu những người thân của mình. Qua đó, nó cũng cho người đọc thấy được bi kịch nghiệt ngã của người con gái tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều nhưng phải chịu đau khổ, trong cuộc sống.

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 7

Nhắc đến Nguyễn Du là người ta nhớ ngay đến ông là một trong những đại thi hào vô cùng xuất sắc của dân tộc. Nguyễn Du cũng đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ với rất nhiều các tác phẩm hay và đặc biệt trong đó không thể không nói đến Truyện Kiều. Tác phẩm nói về cuộc đời của nàng Kiều với biết bao nhiêu cay đắng tủi hờn. Đoạn trích Trao duyên là một phân đoạn đặc sắc của tác phẩm với 12 câu đầu thấm đẫm nước mắt về nghĩa về tình của Thúy Kiều khi phải trao duyên cho em gái Thúy Vân.

Có thể thấy đoạn trích nằm trong phần hai của bộ thơ kể về chuỗi ngày biến động cũng như lưu lạc của Thúy Kiều. Với mười hai câu thơ đầu được xem chính là phần mở màn cho chuỗi ngày đầy xót thương ấy. Đồng thời bài thơ cũng còn là tiếng lòng tha thiết, cắt cứa và như thẳm sâu Thúy Kiều gửi cậy lại cho Thúy Vân, Thúy Kiều đã nhờ em viết tiếp câu chuyện tình yêu Kim Kiều thay mình.

Ngay từ phần mở đầu đoạn trích độc giả đã thấy được một nghịch cảnh vô cùng trớ trêu, chưa từng xuất hiện trong đời thực mà khiến cho chúng ta nỗi đau đến nhói lòng.

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi hãy thưa

Nhân vật Thúy Kiều là chị ấy thế nhưng lại cúi xuống mà “cậy”, lại “thưa” với em gái của mình – Thúy Vân? Nguyễn Du cũng đã sử dụng các từ ngữ mang sắc thái vô cùng trang trọng thường chỉ được dùng để đối đáp, gửi thưa với các bậc bề trên thế nhưng ở đây chính Thúy Kiều lại dùng ngỏ lời với em gái của mình. Với hai câu thơ đầu này cũng đã gợi lên cho người đọc một cảm giác sắp dường như sắp có một chuyện gì quan trọng. Và phải chăng ở đây thì Thúy Kiều đang mang nặng một nỗi tâm tư tình cảm khó nói, hay mang một vấn đề nghiêm trọng muốn gửi gắm cho cô em em gái của mình. Tác giả Nguyễn Du cũng đã khéo léo sử dụng được cặp từ hô ứng tài tình đó là: “cậy – chịu”, “Ngồi lên – thưa” tất cả như đã thể hiện được một sự lô-gic đầy khéo léo trong việc thể hiện được lời tâm tình của nhân vật Thúy Kiều rồi sau đó cũng mới thể hiện được sự thiết tha tỏ tường nhất. Nhân vật Thúy Kiều như đã bày tỏ được nỗi lòng mong muốn Thúy Vân cũng sẽ cố gắng giúp cho mình vì chỉ có Thúy Vân mới giúp được Thúy Kiều lúc này và việc này mà thôi.

Không do dự gì mà Thúy Kiều đã bộc bạch cái nỗi lòng đau đáu của mình với Thúy Vân, nàng kể sự tình, nỗi lòng của nàng ra và mong Thúy Vân có thể hiểu cho mình.

Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Sử dụng hình ảnh “Gánh tương tư” ở đây như cũng lại ám chỉ trách nhiệm tình cảm, đó là một nghĩa vụ chăm sóc yêu thương. Khi mà bị đứt gánh tương tư thì ý của Thúy Kiều lúc này như đang nói đến tình duyên dang dở. Kiều đã tự trách mình không làm tròn cái đạo lí nghĩa tình với người thương – Kim Trọng và nàng cũng đang tự dằn vặt khôn xiết cái trách nhiệm bản thân. Không chỉ dừng lại ở đó thì chính Thúy Kiều cũng đã thật khéo léo muộn được điển tích xưa là “keo loan” để có thể nói hết được tâm trạng cũng như nỗi lòng của nàng. Và mục đích cuối là Thúy Kiều mong muốn Vân sẽ thay mình kết duyên với Kim Trọng, thay mình chăm sóc yêu thương chàng. Sử dụng hai chữ “mặc em” vô cùng hợp lí và đặc sắc, từ đã cho thấy được một sự thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của Thúy Kiều khi đem chuyện tình kiếp cả đời giao phó lại cho em gái của chính mình.

Hình ảnh “gánh tương tư” mà Thúy Kiều nói ở đây nó dường như không chỉ là lời hứa suông đâu mà nó còn bao hàm biết bao nỗi nhọc nhằn, chất chứa được biết bao tình cảm đánh đổi. Nhân vật Thúy Kiều biết như thế sẽ là ép buộc em, cũng biết là lúc này nàng sẽ làm khó em cho nên nàng đã nói hết những băn khoăn trong lòng mình ra cho Thúy Kiều.

Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Nhân vật Thúy Kiều nhớ lại những ký ức của một thời lãng mạn đã qua, đã từng gắn bó với chàng Kim. Nàng kể lúc quen với Kim Trọng như thế nào và tình nghĩa mặn nồng ra sao, bao nhiêu câu thề thốt nhưng không may thì chuyện tình đó lại dở dang. lí do chính bởi nàng vì muốn bảo vệ cha mẹ và em trai mà Kiều đành phụ Kim Trọng. Khi đứng giữa cân đo giữa đạo làm con và người mình thương Kiều thì nàng cũng đành xé lòng làm trọn chữ hiếu mà trong tâm cứ xót xa chữ tình. Thúy Kiều đã hi sinh chữ tình để làm tròn chữ Hiếu, nàng đã sống tròn với trách nhiệm người chị cả gia đình nhưng mong muốn Thúy Vân có thể thay mình trả nghĩa chữ tình kia với Kim Trọng.

Đưa ra một loạt lí lẽ thuyết phục, Thúy Kiều như nói Thúy Vân rằng em vẫn còn trẻ và còn có rất nhiều thời gian để vun vén tình cảm. Và Thúy Kiều thực sự muốn hai người kết nhân duyên và mong cho hạnh phúc đến với Thúy Vân và Kim Trọng. Không chỉ vậy Kiều cũng viện đến cả tình máu mủ ruột già để có thể có lí lẽ xác đáng cậy nhờ ân tình Thúy Vân. Thúy Kiều luôn mong rằng em hãy vì chị chị em em nặng nghĩa tình mà có thể thay nàng để viết nốt lời thề non hẹn biển với chàng Kim.

Nhân vật Thúy Kiều như đang chắt chiu ra từng nỗi đau xót đến tái tê để có thể bày tỏ cùng với Thúy Vân và mong Thúy Vân có thể hiểu được cho nỗi lòng của chính mình có thể chia sẻ, đồng cảm.

Chính tấm ân tình trời bể của Thúy Vân Thúy Kiều chắc chắn sẽ luôn khắc tạc ghi tâm thông qua hai câu thơ:

Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối, hãy còn thơm lây

Với hai câu này Nguyễn Du đã sử dụng thành ngữ của nhân dân ta: thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối dường như cũng đã khiến ta liên tưởng đến cái chết, đến sự đớn đau. Và phải chăng chính Thúy Kiều đã tiên liệu trước được bão giông sắp xảy đến với cuộc đời mình mà nàng nhanh chóng muốn sắp xếp ổn thỏa mọi thứ. Những ân tình ngày hôm nay Thúy Vân nhận lời cho Thúy Kiều như đã khắc ghi không bao giờ quân được. Trong 12 câu đầu của đoạn trích “Trao Duyên” thì tác giả cũng thật tài tình khi sử dụng thể thơ lục bát kết hợp với các điển tích và thành ngữ dân gian để có thể bộc lộ tâm trạng Thúy Kiều. Thông qua đây ta nhận xét thấy được đây là hình ảnh một bức tranh với ngôn từ giản dị, mang được sự gần gũi nhưng tạo được ấn tượng vô cùng mạnh trong lòng độc giả.

Thông qua 12 câu thơ đầu trong đoạn trích “Trao Duyên” thì tác giả Nguyễn Du như dựng lên sự éo le đầy bi ai của cuộc đời người phụ nữ ở trong xã hội phong kiến xưa. Với 12 câu thơ này cũng đã đủ sức lên án một xã hội đã mục rỗng, thối nát mà ở trong xã hội đó sức mạnh của đồng tiền như đã dồn nén con người đến tận cùng của nỗi đau mà không thể nào có thể thoát ra được.

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 8

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc với những tuyệt tác nghệ thuật mà ông đóng góp vào nền văn học Việt Nam. Trong số đó không ai là không biết đến thi truyện “Truyện Kiều” là niềm tự hào của dân tộc. Đó là một câu chuyện được viết nên bằng những vần thơ tô đậm số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thối nát xưa. Mười hai câu đầu đặc sắc trong đoạn trích “Trao Duyên” thuộc phần đầu của thi truyện, là lời nức nở nghẹn ngào khi phải trao mối tình duyên của Thúy Kiều.

Mối tình của nàng Thúy Kiều với Kim Trọng thật sâu đậm, thế nhưng vì xã hội phong kiến thời bấy giờ đã giăng tạo đầy rẫy những bất công khiến đôi uyên ương phải xa cách. Trước tình cảnh đó, để không phụ tấm chân tình mà Kim Trọng dành cho mình, Thúy Kiều đã trao duyên cho người em gái của mình là Thúy Vân trong mười hai câu thơ đầu đoạn trích. Ta nghe như đâu đây tiếng van nài tha thiết từ tấm lòng người chị đang chất chứa muôn vàn khổ đau:

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Đó là lời lẽ chân tình thuần hậu mà Thúy Kiều nói với người em gái của mình. Từ “cậy” chứ không phải từ nhờ là cách dùng từ đặc sắc của Nguyễn Du bởi chỉ trong từ cậy đã thể hiện được hết sự van xin nài nỉ nhưng cũng có đôi phần ép buộc. Lời khẩn cầu vừa mang ý tứ nhờ vả vừa có sự thấp thỏm mong ngóng lời đồng ý “có chịu lời”. Hành động của Thúy Kiều nghe ra hơi có sự vô lý: lạy và thưa bởi hành động ấy chỉ những người nhỏ hơn mới có thể dùng với bậc tiền bối của mình. Điều này chứng tỏ sự nghiêm túc, thật tâm khẩn cầu của Thúy Kiều. Lạy là hành động trang nghiêm trịnh trọng trong khi đó tư thế của nàng là hạ mình như thể mang ơn Thúy Vân qua từ “thưa”. Đó là những lời nói, hành động khác lạ bắt nguồn từ thái độ nghiêm túc hệ trọng và khó nói của việc trao duyên. Thúy Kiều rất khéo léo khi thấu hiểu sự thiệt thòi của em để dùng từ ngữ tạo nên một bầu không khí trao duyên khiến Thúy Vân không thể nào chối từ. Từng từ ngữ câu nói thốt ra đều được Thúy Kiều cân nhắc kĩ càng, chọn lọc. Cái tinh tế trong nội tâm nhân vật được Nguyễn Du diễn tả một cách rất thông minh khéo léo. Càng đọc thơ ta càng thấy rằng Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ được lâu bền, sẽ “đơm hoa kết trái” cho Thúy Vân

Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

“Gánh tương tư” là của Thúy Kiều chính là tình yêu sâu nặng với Kim Trọng nhưng giờ đây đã “đứt gánh” mà không thể nào nối liền lại được. Câu thơ là tiếng xót xa cho chính bản thân mình, cho người em chưa có một mối tình của riêng mình mà giờ đây đáp nghĩa cùng chàng Kim không có một chút tư tình. Thúy Kiều van nài sự xót thương cho số phận bạc mệnh của mình để em gái thương mình mà nhận lời. Nàng băn khoăn Kim Trọng và Thúy Vân bị lỡ làng nhân duyên trong khi chính nàng mới là người chịu nhiều đau khổ thương tâm nhất. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình, là tình thương em gái từ tận đáy lòng. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ hay chối bỏ mà nó có nghĩa là sự phó thác trách nhiệm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự nhờ cậy nơi Vân về mối nhân duyên dang dở của mình.

Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề

Ta có thể hình dung ra hình ảnh một mỹ nhân tuyệt thế đang ngước mắt hoài niệm về mối tình sâu đậm, tình yêu tràn ngập trong ánh mắt. Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng, đâu phải tình cảm một sớm một chiều mà là tình cảm được vun đắp qua từng năm tháng. Câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề” làm sống dậy những kỉ niệm đẹp của đôi tình nhân. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui kỉ niệm về ngày tháng tình nồng ý đậm. Thế nhưng đó cũng là tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, sự tiếc thương về kết thúc của những kỉ niệm đẹp ấy và chuỗi ngày bi thảm mịt mù tiếp theo.

Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Những biến cố liên tục ập đến gia đình và Thúy Kiều phải hy sinh bản thân mình để gia đình được êm ấm đoàn tụ. Chữ “Hiếu” là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu mà con người ta phải dẹp bỏ lợi ích riêng tư, đó đã trở thành điều hiển nhiên trong quan niệm đạo đức khi xưa. Kiều là người con hiếu thảo, có tình nghĩa bởi thế mà giữa bên tình bên nghĩa nàng đã chọn nghĩa để giữ trọn đạo hiếu làm con. Nàng đã tự mình chôn vùi tình cảm riêng tư, hạnh phúc của bản thân để báo hiếu cha mẹ.

Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với Kim Trọng. Ở đời ai chẳng khao khát được gắn bó se duyên ở bên cạnh người mình yêu, có xu hướng hy sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Đặc biệt điều ấy càng thể hiện rõ ở người con gái đa sầu đa cảm, sống có tình nghĩa.Vì thế mà Kiều sẵn sàng “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Sự hy sinh ấy thật cao cả biết bao!

“Trao Duyên” không chỉ đặc sắc ở nội dung mà còn ở nghệ thuật khi hàng loạt những từ đắt giá được sử dụng khéo léo nhuần nhuyễn. Qua đoạn trích, ta có thể thấy được xã hội phong kiến thối nát xưa và đặc biệt là hình tượng người phụ nữ qua nhân vật Thúy Kiều: trọng tình trọng nghĩa, hy sinh cao cả đó là những vẻ đẹp phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 9

Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”. Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:

“Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”

Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kỹ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ từa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiệm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân.

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”

Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.

“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.

Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:

“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”

Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:

“Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”

Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bó với người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo phong kiến khắt khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:

“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”

Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế!

Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…

Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh của Kim,Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thật đau xót thay! Chữ· Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:

“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn· đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.

Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉ ngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.

Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộc đời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.

Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.

“Đau đớn thay phận đàn bà
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”
kiếp số của họ:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từng khía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du· tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:

“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”

(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 10

Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, người đọc không khỏi xót xa trước số phận đầy đau khổ và truân chuyên của nàng. Người con gái tài hoa ấy phải trải qua bao phen đoạn trường, nỗi đau chia cắt tình thân chưa nguôi thì phải chịu nỗi xót xa khi đôi lứa chia lìa. Đoạn trích Trao duyên trong tác phẩm là minh chứng cho nỗi đau khôn nguôi của Kiều khi tình yêu tan vỡ. Mười hai câu đầu đoạn là những lời thơ chất chứa nỗi lòng Kiều.

Mở đầu đoạn trích là lời nhờ cậy tha thiết của Thúy Kiều với Thúy Vân:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Bằng tất cả sự chân thành và mong cầu, Kiều đã ngỏ lời “cậy” nhờ Vân. Từ “cậy” đặt đầu câu thơ mang sức nặng của tiếng nhờ vả, có chăng Kiều đang trông mong, nguyện cầu em chấp thuận. Bao nhiêu nỗi hy vọng, mong chờ và niềm tin trọn vẹn chị đều đặt hết nơi Vân. Tiếng “chịu” cất lên như một sự nài nỉ, mong cầu em xót thương mà chấp nhận đồng thời như một lời báo trước về việc mà mình sắp nói ra đây sẽ rất khó xử với Vân.

Phận làm chị, theo thứ bậc trong gia đình hay lễ giáo phong kiến, Kiều nào có thể lạy em, nhưng trong tình cảnh này, nàng đã chọn cách “lạy” và “thưa” với Vân. Hơn ai hết, Kiều hiểu những thiệt thòi của Vân khi chấp thuận lời nhờ vả, nàng lúc này là kẻ mang ơn, một cái lạy hay câu thưa nào có sánh sự hy sinh của em dành cho mình. Lòng đau đớn khi tình yêu không trọn, nhờ đến Thúy Vân- người em gái duy nhất bấy lâu nàng luôn yêu quý và tin tưởng thay mình nối tiếp mối duyên cùng Kim Trọng mà nàng không khỏi xót xa.

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.

Thành ngữ “giữa đường đứt gánh” được vận dụng đầy khéo léo để chỉ mối lương duyên chìa lìa của Kim – Kiều. “Gánh tương tư” sâu nặng bao nhiêu thì đứt gánh càng khổ đau, cay đắng bấy nhiêu. Điển tích “keo loan” vốn dành cho những mối tình gắn kết, bền chặt nay lại dành nhờ người “chắp mối”. Cụm danh từ “tơ thừa” kết hợp với cụm từ” mặc em” làm nổi bật tâm trạng ngậm ngùi, chua xót của Thúy Kiều. Kiều hiểu những thiệt thòi mà Vân phải chịu khi chấp nhận mối duyên này. Nếu với Thúy Kiều, đó là duyên trăm năm còn với Vân thì đó chỉ là mối “duyên thừa” mà thôi. Hai từ “mặc em” như một sự phó mặc, uỷ thác nơi em của Kiều, nàng tin rằng em sẽ hiểu cho nỗi khó xử và tình cảnh éo le của mình.

Lời vừa dứt cũng là lúc bao kỉ niệm tình đôi lứa chợt ùa về như thác lũ, đó là những kí ức đẹp đẽ:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”

Ngày gặp Kim Trọng, tình yêu chớm nở, hai người “tình trong như đã mặt ngoài còn e”, Kim- Kiều đã từng hạnh phúc biết bao với những lời hẹn ước, với chén rượu thề nguyền. Điệp từ “khi” càng nhấn mạnh nỗi nhớ da diết và cả nỗi tiếc thương nơi Kiều. Nàng tâm sự với em như để giãi bày nỗi lòng cũng là mong em sẽ phần nào hiểu được những day dứt nơi nàng.

“Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

“Sóng gió bất kì” là tai ương bất ngờ đến mà gia đình chị em Kiều phải gánh chịu. Cha và em bị oan sai, Kiều buộc phải bán mình cứu người thân. Chữ “hiếu” đã trọn mà chữ “tình” còn day dứt. Làm sao để vẹn cả hai bề? Đó là một câu hỏi luôn thường trực trong trái tim nàng. Để làm tròn chữ “hiếu”, Kiều đã bỏ lỡ mối keo loan trăm năm, trao duyên cho em để thay mình trả nghĩa cho chàng Kim, cho vẹn chữ “tình” sâu nặng. Nói rồi, để thuyết phục em thêm, nàng tiếp lời:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Những lý lẽ Kiều đưa ra vừa chân thành tha thiết, lại vừa thấu tình đạt lý. Thúy Vân còn tuổi trẻ, còn thời gian để tìm hiểu Kim Trọng, còn Kiều thì khác, khi nàng quyết định bán mình cứu cha cũng là khi tự do, thanh xuân khép lại, phía trước là bao tai ương, sóng gió trực chờ. Hơn thế nữa, Vân và Kiều là máu mủ ruột rà nên dễ dàng đồng, cảm, thấu hiểu mà thay Kiều trả duyên cho Kim Trọng “thay lời nước non”. Thậm chí, nàng còn nói đến cái chết “ngậm cười chín suối” để mong Vân hiểu được tâm nguyện tha thiết của mình. Chắc có lẽ khi nghe những lời ấy, Vân cũng không thể đành lòng nhìn chị đau đớn mà chối từ lời nhờ cậy từ nàng.

Sự kết hợp giữa thể thơ lục bát quen thuộc cùng những từ ngữ đầy tinh tế đã làm cho mười hai câu đầu đoạn thơ thể hiện được nỗi đau “đứt ruột” của Thúy Kiều khi tình duyên tan vỡ. Qua đó, ta càng trân trọng hơn vẻ đẹp của một trái tim thiết tha, chung thủy, một tấm lòng hiếu thảo và giàu đức hi sinh nơi cô gái tài sắc ấy.

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 11

Cả cuộc đời trải qua biết bao thăng trầm sóng gió, Nguyễn Du đã đúc kết kinh nghiệm quý báu làm nên tiếng vang lớn cho hậu thế qua tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi là Truyện Kiều. Dưới ngòi bút tài hoa, một xã hội thê lương tàn bạo bị chi phối bởi đồng tiền, đẩy con người đến tận cùng đau khổ được lột tả khéo léo thông qua thân phận người phụ nữ đó là nàng Thúy Kiều. “Trao duyên”, tuy chỉ là đoạn trích ngắn nhưng đã phản ánh những bất hạnh chân thực nhất trong cuộc đời của Thúy Kiều. Đây là đoạn trích vô cùng ấn tượng và đặc sắc trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du.

Thúy Kiều với Kim Trọng, một mối tình giữa quân tử và giai nhân tưởng đẹp đẽ nhưng cũng chỉ là hoa trong gương, trăng dưới nước. Gia biến ập đến, nàng Kiều phải buộc lòng từ bỏ đoạn duyên thề hẹn chưa kịp “phỉ nguyền” với Kim Trọng để đi lấy Mã Giám Sinh.

Người đâu gặp gỡ làm chi

Trăm năm biết có duyên gì hay không?

Vì đạo hiếu, Kiều bán mình chuộc cha thế nhưng nghĩ đến người mình yêu lại không đành lòng để chàng đau đáu ngóng trông, lại đành lòng trao duyên cho Thúy Vân. Đó là nỗi đau thương cắt từng khúc ruột, nỗi đau âm ỉ chua xót trải dọc suốt 12 câu đầu của đoạn trích “Trao duyên”. Mở đầu đoạn, khung cảnh trở nên não nề và trầm lắng khi Thúy Kiều mở lời cậy nhờ Thúy Vân:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Thúy Kiều, trên cương vị một người chị sao có thể cậy nhờ, lạy thưa với em? Xã hội thời xưa rất coi trọng tôn ti nhưng Nguyễn Du lại để Thúy Kiều sử dụng kính ngữ với Thúy Vân, đó là dụng ý vô cùng tài hoa của tác giả. Nguyễn Du sử dụng từ “Cậy” gửi gắm trong đó là sự tin tưởng, trân trọng và cả lòng biết ơn của Thúy Kiều đối với em gái khi gửi gắm lại mối duyên dang dở với Kim Trọng. “Cậy em em có chịu lời”, câu thơ vừa mang ý khẩn thiết cầu xin, nhờ vả trịnh trọng nhưng lại đặt Thúy Vân ở thế khó xử trước thỉnh cầu của người chị, đó như là sự gượng ép, càng khẳng định mối tình thâm của Thúy Kiều với Kim Trọng, không muốn vì chuyện của mình mà phụ lòng chàng Kim. Thúy Kiều hạ thấp vai vế của mình, đứng trên vị trí của người đi nhờ cậy “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. “Lạy” là hành động tôn kính, ghi ân thường chỉ có cha mẹ, thầy giáo mới có thể nhận, nhưng Kiều lạy em gái mình, đó là cái lạy đối với ân nhân. “Lạy rồi thưa”, ngôn ngữ sử dụng vô cùng trang trọng, như cái lễ ràng buộc khiến Vân không thể chối từ.

Sau khi sử dụng hàng loạt các hành động, ngôn ngữ trang trọng như vậy, Thúy Kiều mới giãi bày câu chuyện của mình với Thúy Vân, mong rằng em có thể thay chị yêu thương, chăm sóc, chắp tiếp đoạn duyên với Kim Trọng:

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Duyên tình đến nửa chừng đứt đoạn, thành ngữ “đứt gánh tương tư” như một lời than cay đắng tưởng niệm mối tình không trọn. Sóng gió đã cướp đi hạnh phúc đáng lẽ thuộc về Kiều, để nàng chơ vơ giữa đoạn đường còn tình cảm, còn nhung nhớ ngập ngụa những khổ đau thống thiết khi phải xa lìa yêu thương. Chữ “tương tư” như tiếng sóng ngầm khắc khoải, day dứt mang theo cả tuyệt vọng. Tác giả còn sử dụng điển tích “keo loan” để mong muốn duyên sau với Thúy Vân sẽ bền chặt, mong rằng Thúy Vân sẽ bằng lòng nhận lấy đoạn duyên này. Thúy Kiều biết, đó là “mối tơ thừa”, là chuyện tình dang dở của mình nên em gái sẽ có phần thiệt thòi nên mới thốt lên từ “mặc”, ý rằng để Vân được tự mình định đoạt.

Gửi duyên cho Vân thế mà nỗi nhớ mong về ngày xưa năm cũ cứ thế mà trỗi dậy trong lòng Kiều, ký ức như một bộ phim tua lại, rõ ràng tràn đầy nhung nhớ giữa bể khổ trần ai:

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Từ “khi” điệp lại đến ba lần, mở ra từng mốc thời gian Thúy Kiều gặp được Kim Trọng, tất cả những kỷ niệm, vui mừng, đính ước, thề hẹn đều rõ ràng đến vậy. “Ngày quạt ước”, “đêm chén thề”, ngày và đêm, không gian và thời gian cứ như tuần hoàn liên tục, đó là khi họ bầu bạn đối thơ, ngắm trăng, uống rượu, trao nhau vật đính ước… Có bao giờ Kiều quên được điều đó, nỗi nhớ ấy như con dao khứa sâu, chỉ có thể lần cuối nhớ lại trong ký ức đẹp nhất, khi Kiều vẫn còn chưa thuộc về Mã Giám Sinh. Chắc gì về sau còn được cảm thấy hạnh phúc khi nhớ lại, có khi nó còn trở thành niềm day dứt, khổ sở và bi thương của nàng Kiều.

Tiếp đó, Nguyễn Du khéo léo để Kiều nhắc lại “cơ sự cho nên nỗi này” để mối tình đẹp như hoa mộng của Kiều phải chia xa:

Sự đâu sóng gió bất kỳ

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

“Sóng gió” ấy là phong ba ập lên đầu gia đình Kiều, cha và em bị bắt còn Kim Trọng phải về quê chịu tang, hai ngả hai nơi, một bên là hiếu, một bên là tình, thật vô cùng khó xử. Bán mình chuộc cha, phụ tình cảm thủy chung bấy lâu nay mà người thương hết lòng dành cho nàng. Vì tình phụ hiếu, sau này sao có thể ngửa mặt nhìn đời, đối diện với cha mẹ trong nhà, với dòng họ, tổ tiên. Làm thế nào, cũng khó có thể vẹn toàn. “Hai bề vẹn hai” đó là điều khó khăn nhất trong sự nguy ngập với tính mạng của cha và em. Đó mãi là câu hỏi đau đớn xoáy sâu vào lòng Kiều, nàng biết, không có cách nào vẹn cả đôi đường. Nỗi đau ấy đang ngày đêm làm Kiều khổ sở, Kiều như phơi bày ruột gan, bộc bạch tất cả nỗi niềm mong rằng Thúy Vân có thể hiểu lòng chị mà giúp cho tình duyên này không đến mức phải phụ lòng.

Hơn thế, Thúy Kiều còn dùng lý lẽ thích đáng để thuyết phục Vân có thể nhận lời:

Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Phải, Thúy Vân còn trẻ, năm tháng dài rộng, cho dù tình cảm với Kim Trọng khuyết thiếu có thể bù đắp còn hơn người chị đã rời xa. Từ “xót” cùng với cụm từ “tình máu mủ” như chạm vào tình cảm huyết thống mà Thúy Vân có với Thúy Kiều, của chị cũng là của em, chúng ta là máu mủ ruột thịt hãy thương lấy nhau. Mong rằng Thúy Vân niệm tình máu mủ yêu thương lo toan bao nhiêu năm mà thay chị gánh vác lời thề “nước non” với Kim Trọng. Lý do Kiều đưa ra vừa hợp lý vừa hợp tình.

Không những vậy, nỗi lo sợ về cái chết không còn có cơ hội trở lại càng trở thành lý do thuyết phục hơn với Thúy Vân:

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Việc trả nghĩa trả tình cho Kim Trọng quan trọng hơn cả tính mạng của Kiều. Khi chết, con người trở về với cát bụi, không còn liên quan đến thế gian này nữa nhưng tâm nguyện của họ vẫn còn vang vọng đâu đây. Tâm nguyện của Kiều là mong mỏi em mình nối duyên với chàng Kim, chỉ có vậy nàng mới có thể “ngậm cười chín suối”. Câu thơ như là lời trăn trối của Kiều sợ rằng sau này không thể gặp lại được Kim Trọng. Cũng vì lấy cái chết, lấy tâm nguyện của một kẻ sắp chết nên lời thỉnh cầu càng thêm nặng khiến cho Thúy Vân không thể khước từ.

Tuy rằng lấy tên là “Trao duyên” nhưng đó lại là cái duyên ép uổng mà Thúy Kiều để lại cho em mình, đó là nỗi đau bất đắc dĩ vì chọn đạo hiếu cao hơn tình yêu mà Kiều phải chấp nhận. Xuyên suốt đoạn trích là sự oan ức, thống khổ, không nỡ chia lìa của Thúy Kiều. Cho dù để lại đoạn duyên chắp nối cho em, âu cũng là điều không đành lòng.

Bằng nghệ thuật độc đáo, ngôn từ bậc thầy, giọng thơ đi sâu vào lòng người, Nguyễn Du đã lột tả trọn vẹn nỗi đau và câu chuyện của Thúy Kiều khi gửi gắm mối duyên với Kim Trọng trong 12 câu thơ đầu đoạn trích “Trao duyên” (Đoạn trường tân thanh). Đó còn là tiếng kêu than về một xã hội thối nát, làm cuộc sống của người dân vô tội điêu đứng đồng thời là sự bất bình, lòng thương cảm cho thân phận của người phụ nữ đương thời mỏng manh như bèo nước, chịu nhiều oan trái khổ đau.

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 12

Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam về mảng ngôn từ, tác phẩm được mệnh danh là tác phẩm thuộc thể loại truyện thơ nổi tiếng bậc nhất được xếp vào hàng kinh điển trong kho tàng văn học dân tộc, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của nhân dân Việt Nam ta từ bao đời nay. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm với tổng cộng 3254 câu thơ lục bát, nội dung kể về cuộc đời lắm truân chuyên của nàng Thúy Kiều với 15 năm lưu lạc chốn phong trần. Sở dĩ tác phẩm được xếp vào hàng kinh điển bởi vì nó chứa đựng nhiều những giá trị nhân văn nhân đạo sâu sắc cùng với những giá trị hiện thực của tác phẩm, thương xót và đồng cảm cho thân phận của người phụ nữ, đồng thời phát hiện và đề cao vẻ đẹp cả về ngoại hình và tâm hồn của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến còn nhiều bất công. Đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều là một trong những trích đoạn xuất sắc và thú vị, diễn tả một trong những nỗi đau lớn nhất cuộc đời của Thúy Kiều, nỗi đau từ bỏ tình yêu đầu đời, bán mình chuộc cha, mở ra bước ngoặt lớn đầy biến động trong cuộc đời nàng. Trong đó 12 câu thơ đầu, diễn tả nỗi dằn vặt khổ sở của Kiều khi phải dứt tình trao duyên cho em gái.

Sau biến cố của gia đình, cha và em Thúy Kiều bị bắt và bị hành hạ tra tấn dã man, đòi buộc gia đình Kiều phải đưa ra một khoản tiền lớn thì mới cho thả người. Thế nhưng vốn dĩ của cải của gia tộc đã bị vơ vét bằng hết, nhà chỉ còn lại mấy mẹ con Thúy Kiều, không còn cách nào khác Thúy Kiều đành phải bán mình làm vợ lẽ cho một kẻ là Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha. Việc này khiến Kiều vô cùng đau khổ, không chỉ vậy bán mình làm lẽ cũng đồng nghĩa với việc Kiều phản bội lại lời thề nguyền với Kim Trọng. Vì muốn vẹn toàn đôi đường, Kiều đành nén đau nhờ cậy Thúy Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng trong đau khổ và day dứt vô cùng.

Ở hai câu thơ đầu tiên: “Cậy em em có chịu lời/Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”, Kiều rõ ràng thấu hiểu được rằng việc nhờ cậy này là vô cùng khó khăn không chỉ với nàng mà với cả Thúy Vân, việc bắt ép em gái lấy người mình không yêu là một việc khó có thể mở lời. Thế nên Thúy Kiều đã hết sức cẩn thận, e dè lựa chọn ngôn ngữ thật tinh tế để đưa Thúy Vân vào thế khó, khiến nàng không thể chối từ. Kiều dùng từ “cậy” mà không phải từ “nhờ” bởi từ này vốn vừa có nghĩa là nhờ vả, thì nó còn bộc lộ sự tin tưởng, lòng hy vọng khẩn thiết mà Thúy Kiều gửi gắm, nó cũng thể hiện cả cái nỗi khó xử, đớn đau trong lòng Kiều. Với hai từ “chịu lời”, càng thể hiện rõ sự tinh tế của Kiều trong cách dùng từ, ở đây hai từ này đã thể hiện sự thấu hiểu, thông cảm của Kiều đối với vị trí của Thúy Vân, nàng hiểu rõ rằng chuyện trao duyên này là chuyện khá khó xử và vô cùng miễn cưỡng, có lẽ rằng Thúy Vân sẽ khó lòng mà chấp nhận được. Rõ ràng rằng, Thúy Vân không hề yêu Kim Trọng, phải lấy người mình không có tình cảm vốn đã là chuyện khó khăn, hơn thế nữa Kim Trọng lại còn là tình lang cũ của chị gái, chắc chắn rằng cuộc sống của Vân sẽ không bao giờ có được hạnh phúc trọn vẹn, bởi chàng Kim hễ nhìn đến Vân thì cũng nghĩ ngay đến Kiều. Và quả thật trong suốt 15 năm cuộc đời của Kim Trọng, chàng vẫn luôn tìm Kiều, thử hỏi rằng cảm nhận của Vân liệu được thấu hiểu bao phần? Quả thật đó chính là nỗi bi ai lớn nhất cuộc đời của người phụ nữ dù là xã hội phong kiến hay hiện đại. Tuy Kiều thấu hiểu hết mọi điều, nhưng cớ sự không cho phép nàng nhân nhượng hay dừng lại, Kiều là người hiểu lễ nghi, biết bản thân làm con trước phải trọn hiếu, thế nhưng một bên tình nàng vẫn phải trọn nghĩa, cuối cùng nàng đành chọn cách ích kỷ, trở thành người xấu xa khi dồn ép em gái phải nhận lời trao duyên để vẹn toàn, nghĩ cũng thật đáng thương vô cùng. Và nếu xét lại thì so với cuộc đời 15 năm sóng gió, đau thương tủi nhục của Kiều thì việc Thúy Vân nhận lời trao duyên, thành vợ chồng với Kim Trọng thay chị cũng coi như là gánh vác một phần trách nhiệm với gia đình. Câu chuyện trao duyên khiến Kiều vô cùng đau khổ và xót xa, nàng vốn không biết phải mở lời sao cho hợp lẽ, đành chọn cách “lạy-thưa”, nghe thì có vẻ bất hợp lý thế nhưng trong trường hợp này, Kiều là người phải xuống nước, đồng thời cũng cần buộc Thúy Vân nhận lời thế nên hai từ “lạy-thưa” ấy vừa hay đem đến hiệu ứng đặc biệt. Từ mối quan hệ chị em, Thúy Kiều đã chuyển nó thành mối quan hệ giữa ân nhân và người chịu ơn, thể hiện sự tôn trọng, tấm lòng khẩn cầu tha thiết dành cho Vân, mong nàng có thể dễ dàng chấp thuận hơn.

Sau lời dạo đầu đưa Thúy Vân vào thế không thể chối từ, Thúy Kiều bắt đầu giãi bày mối tình của mình với Kim Trọng, bộc lộ nỗi đớn đau xót xa trong lòng nàng, đồng thời cũng thể hiện sự trân trọng của nàng dành cho mối tình này.

“Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”

Kiều với Kim Trọng không phải là mối tình mới chớm mà thực tế nó đã đến mức sâu nặng, khi cả hai đã cùng nhau tự đính ước chung thân, trao tay nhau chiếc “quạt ước” hẹn chuyện trăm năm, rồi lại cùng uống “chén thề” nguyền một đời có nhau dưới ánh trăng tươi đẹp. Mà trong xã hội phong kiến việc nam nữ trao nhau vật đính ước, lại cùng thề nguyện thì coi như đã định chung thân, vốn là chuyện thiêng liêng gắn bó, không thể nói dứt là dứt, vậy thì chẳng khác nào kẻ bạc nghĩa, là việc làm của kẻ thất phu. Thế nên đối với Thúy Kiều đây là việc hệ trọng khiến nàng day dứt và trắng đêm suy nghĩ sao cho vẹn toàn. Việc Kiều từ bỏ tình yêu, trao duyên lại cho em gái cũng là xuất phát từ nỗi bất đắc dĩ, nàng đã bán thân làm lẽ dĩ nhiên chẳng thể đáp nghĩa Kim Trọng, tất cả cũng chỉ vì cái gọi là ““Sự đâu sóng gió bất kỳ” mà một thiếu nữ 14, 15 như Kiều chẳng kịp trở tay. Thúy Kiều bị đặt trong sự mâu thuẫn gay gắt và khó giải quyết “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”, rồi cuối cùng xét mãi, Kiều vẫn chọn đạo hiếu làm đầu, ngậm đắng cay chối từ tình yêu, nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng còn mình thì hy sinh hạnh phúc, hy sinh bản thân để cứu cha, cứu em. Kiều bị chìm trong mối day dứt, đớn đau vì tình yêu tan vỡ, vì nỗi tiếc nuối cho mối tình “đứt gánh giữa đường”, nghĩa mà xót xa cho thân phận tài hoa bạc mệnh của nàng.

Cuối cùng Kiều đã chọn cách vẹn toàn nhất là mở lời cậy nhờ trao duyên cho em gái “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”, câu thơ vừa thể hiện sự buông bỏ trong lý trí nhưng cũng kín đáo bộc lộ nỗi đau xót trong lòng Kiều. Không chỉ vậy mấy từ “mối tơ thừa” cũng là tấm lòng thương cảm của Kiều dành cho Vân, bởi phải chấp nhận mối duyên thừa của chị, phải thay chị trả nghĩa, không có quyền lựa chọn cho mình một mối tình trọn vẹn. Nhưng rồi chuyện gia biến, không để Kiều có thể cân nhắc vẹn toàn tất cả, đành phải “mặc em”, cũng để Thúy Vân gánh vác một phần nào đó, mặc dù nàng thấu hiểu rằng “Ngày xuân em hãy còn dài”, biết rằng nếu như không có cuộc trao duyên này ắt hẳn Thúy Vân rồi cũng sẽ tìm được một đức lang quân như ý, chứ không phải là chôn vùi cuộc đời bên trách nhiệm trả nghĩa cho chị. Thế nhưng, Kiều đã nắm chắc rằng Vân sẽ không từ chối, không thể từ chối được vì ít nhiều nàng cũng “Xót tình máu mủ thay lời nước non” để giúp Kiều vẹn toàn chữ nghĩa. Chỉ có thế Kiều mới có thể “Chị dù thịt nát xương mòn/Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, bộc lộ sự biết ơn của nàng dành cho Thúy Vân, đồng thời là những dự cảm không lành về bước đường tương lai, nhưng ít nhiều nàng cũng đã yên lòng vì vẹn toàn cả chữ hiếu lẫn chữ tình, dẫu có bề gì cũng không còn tiếc nuối.

Như vậy thông qua 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên ta có thể nhận thấy những nỗi đau thương đầu tiên trong cuộc đời bạc mệnh của Thúy Kiều, dự cảm về một tương lai đầy sóng gió của nàng. Bên cạnh đó thông qua cảnh trao duyên ta có thể nhận ra sự khéo léo, thông minh của Thúy Kiều, giải quyết tình huống trong viễn cảnh khó khăn nhưng vẫn thỏa nguyện. Đoạn trích cũng đem đến cho độc giả sự thương cảm, xót xa cho cuộc đời của Thúy Kiều, nỗi khốn khổ khi phải dằn vặt bản thân trước chữ hiếu và chữ tình.

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 13

Trao duyên là một đoạn thơ có ý nghĩa đặc biệt trong Truyện Kiều. Nó là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời mười năm lưu lạc đầy đau khổ của Thúy Kiều, thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch tình yêu tan vỡ của tác phẩm, đồng thời bộc lộ biệt tài tâm lí của nhân vật Nguyễn Du.

Mở đầu là lời cầu khẩn của Kiều đối với Vân:

Cậy em, em có chịu lời
Lạy lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Chỉ hai câu mà nhà thơ Nguyễn Du đã dựng lên được một không khí, một cảnh ngộ đặc biệt. Lời nói của Kiều đối với Vân không còn là ngôn ngữ thông thường của chị nói với em trong một gia đình nho giáo, nề nếp nữa. Những chữ cậy (Chứ không phải là nhờ), đặc biệt là sự khẩn khoản của em ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa đã tạo nên không khí trang trọng đặc biệt mở đầu cho một tình huống tâm lí hết sức phức tạp. Bằng những lời lẽ vừa khẩn khoản, vừa thiết tha, Kiều đã tự hạ mình xuống tư thế của người lụy phiền, an lơn, cầu khẩn chính đứa em ruột của mình. Kiều hiểu được gánh nặng Kiều sắp trao em và càng hiểu sâu sắc hơn về tình thế khó sử của Vân.

Cái điều mà Kiều muốn thưa với Vân chính là bi kịch tình yêu tan vỡ của ninh và tha thiết cầu khẩn Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng. Lời tâm sự của Kiều không dài dòng nhưng đã nói lên đầy đủ cả sự việc, cả lí lẽ và tình cảm của mình, nhằm cái đích chủ yếu là dọn một con đường cho trái tim liền với trái tim. Kiều đã lay động ở Vân tình cảm chị em máu mủ, ruột thịt:

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Kiều còn viện cả cái chết của mình ra để nói lên sự toại nguyện nếu Vân nhận lời thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng:

Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.

Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa thuyết phục, vừa thiết tha, vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận. Nàng Kiều của Nguyễn Du tỏ ra sắc sảo mặn mà cả trong bi kịch đau đớn nhất của mình.

Song, nàng Kiều trong đoạn Trao duyên cũng như trong suốt truyện Kiều không giản đơn chỉ là một con người hành động vì mục đích nào đó. Nàng Kiều của Nguyễn Du còn luôn sống với những tâm tư, tình cảm thầm kín của mình. Nguyễn Du đã thâm nhập vào thâm cung của nội tâm nhân vật, miêu tả nàng Kiều với tất cả trạng thái tình cảm phong phú, phức tạp như một con người thật ở ngoài đời. Kiều khẩn thiết nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng cũng không hề giấu giếm nỗi đau không cùng (Giữa đường đứt gánh tương tư) của mình, không che giấu tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng Kim (Kể từ khi gặp chàng Kim; Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề). Mượn cả cái chết để nói lên sự thanh thản của mình nếu như Vân nhận lời nối duyên với chàng Kim. Vậy mà khi trao những kỉ vật cho Vân, Kiều lại thấy mất mát to lớn không gì bù đắp nổi. Tay Kiều thì trao nhưng lòng Kiều còn cố níu kéo giữ lại một chút gì cho mình: Chiếc thoa với bức tờ mây; Duyên này thì giữ vật này của chung. Biết bao giằng xé, đau đớn, chua chát, trong hai chữ của chung đầy phi lí ấy. Khẩn khoản, van nài em nhận lời trao duyên của mình, vậy mà Kiểu lại thấy mình như là kẻ bị mất người coi mình như là người mệnh bạc. Tất cả những tình cảm mâu thuẫn ấy càng làm cho tấm bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều thêm đau đớn.

Giờ những kỉ vật trao cho Vân, Kiều như sống lại với những kỉ niệm cũ. Sự hiện diện của những kỉ vật càng gợi lên sự tương phản giữa hạnh phúc rực rỡ trong quá khứ với sự chia li đau đớn trong hiện tại. Lời hẹn ước thề bồi mới hôm nào, thoắt cái đã thành chuyện của ngày xưa, của quá văng. Sự cảm nhận của thời gian có màu sắc tâm lí ấy đã tô đậm thêm nỗi đau đớn của nàng Kiều khi ý thức sâu sắc được sự cách biệt giữa quá khứ và hiện tại.

Cố níu giữ tình yêu khi trao kỉ vật trong thế giới tồn hiện tại chưa đủ, Kiều còn cố níu một lần nữa trong tương lai ở thế giới bên kia. Song cái thế giới của mai sau… của linh hồn cũng không hơn gì thế giới của hôm nay, của cuộc đời thực. Vẫn là lời của Kiều tâm sự, cầu khẩn với Vân tưởng như những lời từ thế giới bên kia vọng về, mà sao vẫn thấm đầy nước mắt:

Mai sau dù có bao giờ
Đốt là hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân, bồ liễu đền nghi trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.

Dẫu đã sang thế giới bên kia nhưng linh hồn Kiều đã vẫn còn mang nặng lời thề, vẫn còn mong muốn, khao khát qua những làn gió nhẹ hiu hiu trở về gặp lại người yêu, vẫn khát khao nhận được sự đồng cảm của con người nơi trần thế. Từ lúc tâm sự, giãi bày, thuyết phục Vân nhận lời trao duyên, đến lúc trao kỉ vật, rồi đến khi sống trong thế giới của hồn oan, Kiều càng ngày : Càng đau xót nhưng cũng càng ngày càng quyết liệt, cố níu giữ tình yêu của ninh bằng mọi cách. Thật quả là; Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng. Bản chất thủy chung son sắt với tình yêu đã làm cho nàng Kiều, ngay cả khi đã hóa thân vào hồn oan, cũng tỏ ra rất người, rất trần thế.

Dẫu có quay về với quá khứ, vẫn hướng tới tương lai của thế giới bên kia nhưng nàng Kiều chủ yếu vẫn là con người sống trong thực tại. Nguyễn Du, bằng cảm quan hiện thực của mình, đã không trình bày cảnh trao duyên một cách đơn giản, sự việc này nối tiếp sự việc kia, mà biết dừng lại ở cái bây giờ, cái cá biệt, không lặp lại của thời gian và không gian đã khám phá thế giới nội tâm của nhân vật. Nàng Kiều cuối cùng lại quay về với chính lòng mình, tột cùng đau đớn khi ý thức sâu sắc bi kịch trong hiện tại của mình. Sự tan vỡ tình yêu là có thật, là không gì cứu vãn nổi. Dồn dập những hình ảnh, những từ ngữ: trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi, nước chảy hoa trôi, phận bạc như vôi đã nói lên thật thấm thìa, đầy xót thương về nỗi đau của nàng Kiều. Bi kịch của nàng Kiều lại càng sâu sắc khi trước hiện tại, nàng vẫn không thôi khao khát hạnh phúc tình yêu:

Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

Đến đoạn cuối, Kiều như quên hẳn là đang nói với Vân mà như nói với hình mình. Bi kịch tình yêu tan vỡ lên tới tột đỉnh, Kiều thốt lên những tiếng kêu xé lòng:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Tên chàng Kim vang lên hai lần trong một câu thơ, vừa tha thiết, vừa xiết ao trân trọng. Câu cuối cùng là một lời than, lời tự trách mình. Bước ngoặt im lí này thật bất ngờ nhưng lại rất hợp lí, bị quy định bởi chính logic tính cách của Kiều. Nàng Kiều sống hết mình trong nỗi đau tột cùng của mình, hưng trước sau vẫn là một con người giàu lòng vị tha. Kiều ân cần, chu đáo với chàng Kim, nhưng vẫn tự cho mình là người đã phụ chàng. Kiều quên nỗi bất hạnh của mình để cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh của người khác. Kiều thương chàng Kim hơn cả chính bản thân mình, Kiều không đổ lỗi cho hoàn anh mà tự nhận trách nhiệm về mình. Có thể nói, chỉ một chữ phụ thôi mà đã im sáng lên vẻ đẹp nhân cách cao thượng, giàu lòng vị tha của nàng Kiều.

Đoạn Trao duyên, về hình thức, được trình bày như là lời tâm sự, giãi bày của Kiều với Vân, tức là bằng ngôn ngữ đối thoại. Hình thức đối thoại ấy rõ nhất là ở mấy câu thơ đầu, nhưng càng ngày càng mờ nhạt dần. Sự thật, cả cạn thơ chỉ thấy ngôn ngữ của Kiều, không thấy lời đáp lại của Vân. Hình thức đối thoại được dần dần chuyển thành hình thức độc thoại nội tâm. Ngòi bút bậc thầy tâm lí mà Nguyễn Du đã miêu tả tâm lí Thúy Kiều trong cảnh trao duyên như là một quá trình tự ý thức về bi kịch tình yêu tan vỡ của mình, tự bộc lộ, tự phơi bày tâm sự, tình cảm và khát vọng sâu kín của mình. Và chính vì thế, người đọc như được chứng kiến tận mắt cảnh trao duyên chứ không phải được nghệ thuật lại cảnh này.

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 14

Trao duyên nằm ở đầu phần hai: Gia biến và lưu lạc, khép lại những tháng ngày “êm đềm trướng rủ màn che” mở ra mười lăm năm lưu lạc và số phận bất hạnh của nàng Kiều. Trước khi bước vào giai đoạn đầy đau thương ấy, vào đêm cuối cùng trước khi xa nhà, Thúy Kiều đã trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Tình cảnh ấy khiến người đọc không thể cầm nước mắt và cảm thương cho số phận nàng.

Mở đầu đoạn trích là lời cậy nhờ của Kiều với Vân:

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Ngôn ngữ của nàng Kiều sử dụng tỏ ra hết sức tinh tế và chuẩn xác. Chữ “cậy” vốn giống chữ “nhờ” là hành động yêu cầu, mong muốn ai đó làm việc gì đó giúp mình. Nhưng chữ “cậy” lại khác chữ “nhờ” ở sắc thái biểu cảm, “cậy” thể hiện một sự tin tưởng trọn vẹn đến người được nhờ. Chữ “chịu” giống chữ “nhận” nghĩa là đồng ý, nhưng đồng thời chữ này cũng khác chữ “nhận” ở thái độ tình cảm khẩn thiết, van nài, đặt người được nhờ vào tình thế không thể từ chối. Như vậy với cách sử dụng ngôn ngữ khéo léo, Thúy Kiều đã bước đầu đặt em vào tình thế phải nhận lời.

Không chỉ ngôn ngữ mà cử chỉ, hành động cũng hết sức chân thành: lạy, thưa. Hành động “lạy” vốn chỉ hành động kính trọng, biết ơn của kẻ dưới với người bề trên. Nhưng trong hoàn cảnh này người lạy lại là Thúy Kiều – chị, người được lạy là Thúy Vân – em. Có sự đảo ngược vị thế giao tiếp kẻ chịu ơn đang lạy ân nhân của mình. Kiều đã cúi mình trước em, vì nàng hiểu rằng việc nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trong là bất công, là thiệt thòi với em rất nhiều. Hành động “thưa” cũng là một từ chỉ hành động kính trọng của kẻ dưới với người trên. Trong hoàn cảnh này, nó được sử dụng để thể hiện sự trân trọng, biết ơn của Thúy Kiều trước sự hi sinh của Vân. Ngoài ra cũng cần kể đến giọng điệu hết sức tha thiết, chân thành Thúy Kiều dành cho em.

Trao duyên vốn là một vấn đề hết sức tế nhị và khó nói nên Thúy Kiều đã phải suy nghĩ, chọn lọc thật kĩ lưỡng ngôn ngữ, cử chỉ, giọng điệu sao cho phù hợp để mở lời trao duyên. Ngay từ cách mở lời trao duyên người đọc đã có thể cảm nhận được sự thông minh, tinh tế am hiểu tâm lí và luôn nghĩ cho người khác của nàng Kiều.

Sau những lời mở đầu hết sức khôn khéo ấy, Thúy Kiều đã tâm sự với em những điều thật lòng để thuyết phục em nhận lời trao duyên. Trước hết nàng tâm sự với em về mối tình với Kim Trọng: “Kể từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”. Những kỉ niệm tình yêu thật đẹp đẽ, sâu đậm mà nàng chỉ muốn giữ cho riêng mình, từ “khi” được lặp lại hai lần đã cho thấy rõ mong muốn đó. Nhưng tất cả chỉ còn là quá khứ xa xôi, thực tại thật đau đớn và phũ phàng với nàng:

Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Hoàn cảnh “giữa đường đứt gánh tương tư” Kiều bị đặt vào tình thế lựa chọn chữ hiếu và chữ tình. Đau đớn và xót xa nhưng một người con có hiếu như nàng nhất định sẽ không chọn chữ Tình mà để cha mẹ phải đau khổ, nàng lựa chọn chữ Hiếu mà trái tim như vụn vỡ khi phải phụ lòng chàng Kim. Tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở đã bị hiện thực phũ phàng, ngang trái làm tan vỡ. Nàng dằn lòng mình, lấy lời lẽ khéo léo để khuyên em và cũng là thuyết phục em:

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Thúy Kiều đã đưa ra ba lí lẽ để thuyết phục em: trước hết em vẫn còn trẻ, tuổi xuân còn dài, thứ hai nàng lấy tình chị em để lay động Thúy Vân, và thứ ba nàng lấy cả chết ra để thuyết phục, dù có chết nàng vẫn “ngậm cười” vì hành động cao đẹp Thúy Vân đã nhận lời với mình. Với ba lí lẽ hết sức thuyết phục như vậy, đã khiến cho Thúy Vân không thể chối từ lời đề nghị của chị. Mặc dù vô cùng đau đớn khi phải trao duyên của mình cho em nhưng Thúy Kiều không hề quan tâm đến sự thua thiệt của bản thân mình, đến nỗi đau mà mình phải chịu đựng, lúc nào nàng cũng chỉ canh cánh một nỗi đau là đã phụ bạc Kim Trọng và tìm cách bù đắp cho chàng. Lời thuyết phục em của nàng vô cùng chân thành, cảm động.

Để tạo nên thành công cho lời thuyết phục trao duyên, ta cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về mặt nghệ thuật. Ngôn ngữ sử dụng tài tình, những chữ dùng đắt giá “lạy” “thưa” “cậy”,… có ý nghĩa quan trọng trong việc thuyết phục Thúy Vân. Lập luận, lí lẽ sắc bén vừa lí trí mà cũng vô cùng tình cảm.

Bằng lớp ngôn từ tinh tế, thông minh Thúy Kiều đã khiến em gái Thúy Vân phải nhận lời trao duyên. Qua đó ta thấy sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều. Đồng thời cũng thấy được tấm lòng thủy chung, người con có hiếu với cha mẹ của nàng Kiều. Đồng thời cũng cho thấy số phận đầy bất hạnh của nàng.

Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên – Mẫu 15

Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Truyện Kiều”. Đây là tác phẩm mà Nguyễn Du đã thể hiện được niềm cảm thông, thương xót với số phận “hồng nhan bạc mệnh”. Cuộc đời của Thúy Kiều gặp nhiều sóng gió, trắc trở. Mười hai câu thơ đầu của đoạn trích “Trao duyên” là sự mở đầu cho những tai ương mà nàng gặp phải.

Để có tiền chuộc cha và em, Thúy Kiều đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh. Quyết định ấy khiến nàng vô cùng đau đớn khi mối tình với Kim Trọng bị dang dở. Để không phụ lòng người mình yêu, nàng đã trao duyên lại cho người em gái Thúy Vân để cô thay mình nối duyên với chàng Kim:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ngay từ câu thơ mở đầu, người đọc đã cảm nhận được sự trang trọng trong lời nói và hành động của Thúy Kiều. Phải chăng việc trao duyên là việc hệ trọng, khó nói nên cách thức trao duyên cũng trịnh trọng và khác lạ hơn bởi thông thường người ta chỉ trao những đồ vật chứ không có ai lại trao đi một thứ khó xác định, khó nắm bắt như trao duyên.

Tuy là chị nhưng Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ, hành động rất trang trọng đối với Thúy Vân. Nàng không sử dụng từ “nhờ” mà lại dùng từ “cậy”. “Cậy” không chỉ mang nghĩa nhờ vả mà còn mang sắc thái như nài nỉ, ép buộc đồng thời cũng thể hiện sự tin tưởng vào người được nhờ cậy. Song song với lời nói là hành động “lạy”, “thưa” của Thúy Kiều. Việc nhờ cậy phải hệ trọng, khẩn thiết lắm thì Thúy Kiều mới có hành động như vậy. Thông thường chỉ những người có vai vế thấp hơn người cùng giao tiếp mới có những hành động “lạy”, “thưa” nhưng trong trường hợp này, Kiều đã hạ mình xuống để cầu mong em gái chấp nhận lời thỉnh cầu của nàng bởi lẽ nàng là người mang ơn. Đặt mình trong hoàn cảnh của Thúy Vân thì cô chỉ có thể “chịu lời” chứ không thể từ chối. Nếu Thúy Vân dùng từ “nhận lời” thì Thúy Vân có thể khước từ lời nhờ cậy, cô có thể giúp hoặc không giúp nhưng Thúy Kiều muốn em đồng ý giúp mình nên nàng đã đặt Vân vào hoàn cảnh mà cô chỉ có thể “chịu lời”. Với lời nói và lễ nghi như vậy, làm sao Thúy Vân có thể từ chối giúp đỡ.

Để em gái hiểu rõ hơn nguyên nhân dẫn đến sự nhờ cậy này, Thúy Kiều đã thuật lại câu chuyện của mình với Kim Trọng:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”

Có lẽ tình yêu ấy sẽ đơm hoa kết trái nếu không bị đứt gánh giữa đường. Có lẽ tình yêu ấy sẽ có một kết thúc tốt đẹp nếu gia đình Kiều không gặp phải gia biến, Kiều không phải trải qua mười lăm năm lưu lạc. Hình ảnh ẩn dụ “gánh tương tư” chỉ mối tình của Thúy Kiều – Kim Trọng. Tình yêu vừa chớm nở chưa được bao lâu thì đã phải chịu sự lỡ dở. Có ai không đau xót cho sự dở dang của mối tình kim cổ đó. Tình duyên của bản thân không thành, đó có thể là “mối duyên thừa” đối với Thúy Vân nhưng Thúy Kiều vẫn “mặc em” chắp nối. “Mặc em” nhưng thực chất là nài nỉ, khẩn cầu em giúp đỡ. Biết rằng em gái sẽ khó xử nhưng nàng vẫn phó thác cho em, mong muốn em dùng keo loan để nối mối tơ duyên.

Nàng chia sẻ câu chuyện tình yêu của mình với Thúy Vân để cô có thể hiểu hơn về hoàn cảnh khó xử mà Thúy Kiều đang gặp phải. Kể từ khi gặp Kim Trọng, hai người đã nảy sinh tình cảm. Họ đã cùng nhau thề nguyền, đính ước. Các từ ngữ chỉ thời gian như “ngày’, “đêm” cùng sự lặp lại ba lần của từ “khi”: “khi gặp”, “khi ngày”, “khi đêm” đã cho thấy đó là một mối tình gắn bó sâu đậm. Chắc hẳn bạn đọc không quên đêm thề nguyền của Thúy Kiều và Kim Trọng:

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”

Tình cảm dành cho nhau phải vô cùng sâu sắc thì họ mới cùng nhau thề nguyền. Nhắc đến hình ảnh “quạt ước”, “chén thề” có lẽ Thúy Kiều đã không kìm được nỗi xót xa, tiếc nuối. Vầng trăng là chứng nhân cho lễ thề nguyền ấy vậy mà giờ đây nàng lại chính là người phụ tấm chân tình của chàng Kim. Đâu phải Thúy Kiều muốn như vậy. Đâu phải Thúy Kiều là con người bạc tình bạc nghĩa. Tai họa, sóng gió bỗng xảy đến bất ngờ, gia đình nàng bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị bắt. Để cứu cha và em thoát khỏi những đòn tra tấn tàn nhẫn của bọn sai nha, nàng đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh. Đọc đến dòng thơ này chúng ta mới có thể hiểu được nỗi khó xử của người con gái tài sắc ấy:

“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Là người con cả trong gia đình, đứng giữa chữ “hiếu” và chữ “tình”, Thúy Kiều đã lựa chọn chữ “hiếu” để làm tròn bổn phận của một người con. Cha mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục chẳng lẽ bây giờ khi gia đình gặp sóng gió nàng lại chạy theo tiếng gọi của tình yêu để bỏ mặc gia đình? Là một người con hiếu thảo, nàng không thể làm như vậy. Công ơn của cha mẹ phận làm con dùng cả cuộc đời để báo đáp cũng không thể trả hết. Thúy Kiều tự nhận thấy tấm thân của mình không đáng giá bằng công ơn của cha mẹ:

“Vẻ chi một tấm hồng nhan
Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành”

Sau khi giãi bày, tâm sự với Thúy Vân về mối tình với chàng Kim cũng là lúc nàng đưa ra những lời lẽ thuyết phục:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Đối với Thúy Vân, những năm tháng tuổi trẻ của nàng vẫn còn dài rộng nhưng đối với Thúy Kiều thì những ngày xuân ngắn ngủi đã chấm dứt. Vì thế mà nàng lấy thời gian, “ngày xuân” ra để em thay mình giữ trọn lời thề non hẹn biển với chàng Kim. Để tăng thêm tính thuyết phục, Thúy Kiều còn nhắc đến tình máu mủ của chị em ruột thịt khiến Vân không thể từ chối lời khẩn cầu. Chỉ cần Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng thì dù cho Thúy Kiều ở nơi “chín suối” cũng mỉm cười vui vẻ:

“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Hai thành ngữ quen thuộc của dân gian “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” được tác giả sử dụng linh hoạt và tài tình. Đó đều là các thành ngữ chỉ cái chết, chỉ cõi âm phủ tăm tối. Với Thúy Kiều, mạng sống của mình không quan trọng bằng việc trả nghĩa cho chàng Kim. Chỉ cần Thúy Vân “chịu lời” thì dù có ở cõi chết nàng cũng cảm thấy mãn nguyện. Dù không còn sống trên thế gian này nữa thì ơn nghĩa của Thúy Vân nàng sẽ không bao giờ lãng quên. Không chỉ là người con gái hiếu thảo với cha mẹ, Thúy Kiều còn là một người sống có tình có nghĩa, biết hi sinh vì người khác.

Với thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển trong từng câu chữ cùng các thành ngữ, hình ảnh ẩn dụ, Nguyễn Du đã thể hiện thành công tâm trạng của Thúy Kiều khi phải trao lại mối duyên tình cho em gái ở mười hai câu thơ đầu tiên. Bằng giọng thơ xót xa đầy đau đớn, tác giả đã khơi gợi được lòng cảm thương, đồng cảm của bạn đọc bao thế hệ dành cho người con gái “hồng nhan bạc phận”.

Có thể nói mười hai câu thơ đầu của đoạn trích “Trao duyên” đã khắc họa những tâm trạng dằn vặt, những giằng xé trong nội tâm nhân vật Thúy Kiều. Qua đó cũng thể hiện tiếng nói nhân đạo của nhà thơ khi lên tiếng tố cáo chế độ xã hội vì đồng tiền nên đã đẩy người phụ nữ rơi vào những bi kịch. Vì “sóng gió bất kì” mà Thúy Kiều phải “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Cũng vì sóng gió bất kì” mà nàng phải trải qua mười lăm năm lưu lạc. Đoạn thơ trên đã góp một phần không nhỏ vào sự thành công của đoạn trích “Trao duyên” nói riêng và tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung, đồng thời nó cũng tạo nên những dư âm khó phai mờ trong lòng bạn đọc.

Đăng bởi: Trường Tiểu Học Tiên Phương

Chuyên mục: Tài Liệu Học Tập

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Kênh https://xoilaczzh.tv/ trực tiếp bóng đá