Học TậpLớp 8

Phân tích bài thơ Thu ẩm lớp 8 HAY NHẤT

Thầy cô xin giới thiệu bài văn mẫu Thảo luận về một vấn đề trong đời sống phù hợp với lứa tuổi Ngữ văn 8 Kết nối tri thức gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn.

Phân tích bài thơ Thu ẩm

Đề bài: Viết bài văn phân tích bài thơ “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến

Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Thu ẩm lớp 8 HAY NHẤT

Phân tích bài thơ Thu ẩm lớp 8 HAY NHẤT (ảnh 2)

Phân tích bài thơ Thu ẩm –

mẫu 1

Nguyễn Khuyễn là một nhà thơ tài năng, cốt cách thanh cao, một lòng yêu nước thương dân, từng từ bỏ chốn quan trường vốn là nơi có thể tu chí lập nghiệp vì chán ghét chính quyền thực dân Pháp và bộ máy nhà nước phong kiến thối nát. Ông có một sự nghiệp thơ từ đồ sộ bao gồm cả chữ Hán và Nôm, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến chùm thơ thu bằng chữ Nôm và Thu ẩm là một trong ba bài thơ nức danh đó.

Nhan đề “Thu ẩm” đại khái được hiểu là mùa thu, uống rượu, uống ở đây không phải là nốc ừng ực cả chai, cả bầu mà là sự nhâm nhi thưởng thức đầy văn nhã của một thi sĩ nhân cảnh mùa thu trữ tình. Hai câu đầu như sau:

“Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.”

Khác với Thu vịnh, cảnh mùa thu của Thu ẩm lại hiện lên trong đôi mắt của vị thi nhân ngà ngà men rượu là khung cảnh tối tăm, im ắng, đậm chất làng quê bình dị với “Năm gian nhà cỏ thấp le te”. Nơi đây cũng chẳng sáng bừng ánh đèn như chốn phồn hoa kinh thành mà thay vào đó là những con “ngõ tối” cùng với ánh sáng “lập lòe” của đom đóm đang dạo đêm kiếm bạn. Là những màn sương đêm giăng “phất phơ” như màu “khói nhạt” bên lưng giậu, là hình ảnh “bóng trăng loe” nhàn nhạt đang “lóng lánh” trên mặt ao phẳng lặng trước sân nhà. Và hơn tất cả bầu trời mùa thu vẫn luôn là điểm nhấn đặc sắc với một màu “xanh ngắt” nền nã, trong trẻo, như được ai dồn hết cả tâm sức mà nhuộm lên. Trái ngược với cái màu xanh thanh mát của trời thu là sắc “đỏ hoe” ấm nóng trong đôi mắt của người đang âm thầm thưởng rượu, cảm nhận cái cảm giác được say.

Bài thơ đặc biệt ở chỗ trong sáu câu thơ đầu tả cảnh, tả người, nếu tinh ý người ta sẽ nhận ra được những nét bút cao thấp, gần xa, lúc đậm nhạt. Thấp trong “Năm gian nhà cỏ thấp le te”, thấy được độ sâu của bóng “đêm sâu” dài hun hút, cũng thấy cả sương khói nhạt nhòa vương bên giậu cúc tần trồng trước nhà, lại thấy được cả cái màu “xanh ngắt” đậm đà trên nền trời cao thăm thẳm. Rồi cả cái mỏng nhẹ của ánh trăng “lóng lánh” khi bóng trăng phủ lên mặt ao, “loe” ra một màu nhàn nhạt như dát vàng. Đến câu “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”, ta lại chợt mường tượng ra một đôi mắt hơi sâu, chứa đựng trong đó là một cánh cửa tâm hồn mơ màng trong men rượu, say trong cảnh mùa thu thanh tĩnh, dịu dàng.

Ở hai câu thơ cuối:

“Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè”

Đây là lời thi nhân, nhận xét vu vơ về rượu, nhà thơ thường nghe người đời ca tụng rượu là thú vui tao nhã, uống vào khoan khái tâm hồn, nhưng với nhà thơ ông lại thấy “hay chả mấy”, ý bảo chẳng như lời đồn, làm chi có thứ tuyệt diệu thế. Thú vị hơn, thi nhân cũng không phải người biết uống rượu, thế nên “Độ năm ba chén đã say nhè”, đôi khi ta suy nghĩ rằng liệu có phải thi nhân lần đầu hoặc hiếm khi uống rượu không nhỉ? Nếu vậy thì cớ sự nào khiến nhà thơ tìm đến rượu? Xưa nay người ta vẫn thường ví, uống rượu, câu cá, làm thơ là ba thú vui ta nhã của những kẻ ẩn dật, thong dong hay uống rượu, ngắm hoa, vịnh trăng là thú vui thanh cao tao nhã mà văn nhân, thi sĩ hay làm. Ở đây nhà thơ say nhưng cái cốt cách văn nhã, quân tử vẫn cò đó, chỉ bằng một từ nhẹ nhàng “say nhè”, say nhưng không làm ồn ã, náo động mà chỉ đơn giản là yên ắng, âm thầm ngả lưng xuống chiếu, mở đôi mắt đỏ hoe ngắm trăng ngắm trời rồi thiu thiu vào giấc ngủ. Cái khung cảnh uống rượu của Nguyễn Khuyến khiến chúng ta liên tưởng đến sự cô đơn trống vắng trong từng cảnh vật và cả trong tâm tưởng của nhà thơ. Bởi chỉ nhìn phong thái uống rượu ta cũng đã nhận ra Nguyễn Khuyến buồn, thứ nhất là buồn trước thế sự đổi thay, đất nước loạn lạc, tiếp nữa là buồn trước cảnh cô đơn của bản thân khi những người thân yêu lần lượt ra đi trước, chịu cảnh kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh. Còn một mình nhà thơ ở lại sống lay lắt với những chứng bệnh tật tuổi già, chẳng còn cách nào để quên, ông bèn tìm đến rượu, bởi với ông chỉ vài ba chén đã say, mà say thì ngủ, ngủ thì không nhớ, không sầu. Thật xót xa cho bậc quân tử lại tài năng mà gặp thời cuộc xui rủi, nhiễu nhương.

Thu ẩm của Nguyến Khuyến là cảnh thu, chén rượu đắng cay của thi nhân trước khốn cảnh cuộc đời. Cả bài thơ ngoại trừ nhan đề, chẳng ai thấy tác giả nhắc đến chữ “thu” nào nữa cả, nhưng đấy lại là cái hay và độc đáo của một bài thơ tưởng không phải mùa thu mà lại là mùa thu. Một mùa thu nhẹ nhàng, trầm lắng, man mác nỗi buồn, nỗi cô đơn của thi nhân, qua đó cũng thấy được sự tinh tế và tài năng trong phong cách làm thơ của Nguyễn Khuyến.

Thu ẩm là một trong số những tác phẩm nổi bật của Nguyễn Khuyến, ngoài bài làm văn Phân tích bài Thu ẩm, các bạn cũng có thể tìm hiểu thêm những tác phẩm nổi tiếng khác của nhà thơ như Thu điếu, (Câu cá mùa thu), Bạn đến chơi nhà, Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư, Hội Tây. Hay cả các bài làm văn mẫu Phân tích bài Thu vịnh, hay cả các phần Soạn bài Thu ẩm, Soạn bài Thu vịnh. Rất nhiều những tài liệu hữu ích hi vọng sẽ hỗ trợ cho quá trình học tập của các bạn học sinh hiệu quả nhất.

Phân tích bài thơ Thu ẩm lớp 8 HAY NHẤT (ảnh 1)

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 2

Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu vịnh (Mùa thu làm thơ), Thu ẩm (Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.

Dáng thu trong Thu vịnh thăm thẳm, xa vời, quen mà lạ. Trời thu thì xanh ngát những mấy từng cao; khóm tre thu nhỏ lại trong hinh ảnh cần trúc, sương như khói phủ thành tầng trên mặt nước, song thưa để mặc bóng tràng vào, hoa năm nay bỗng thành hoa năm ngoái, tiếng ngỗng thảng thốt, mơ hổ… Hồn thu như lắng chìm vào bôn trong, ẩn chứa ở chiều sâu.

Dáng thu, hồn thu ở bài Thu điếu lại chất chứa trong sự thu nhỏ và lặng im của cảnh vật: chiếc thuyền câu bé tẻo teo, nước biếc trên mặt ao chỉ gợn tí, lá vàng khẽ rơi vèo không thành tiếng, tiếng cá đớp động rất nhẹ dưới chân bèo. Tất cả đều im lìm, tĩnh mịch. Tưởng chừng như ông câu cũng hoá đá trong tư thế tựa gối ôm cần.

Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong sự chờ đợi mỏi mòn giữa không khí yên lặng gần như tuyệt đối.

Trở lại với hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là có ý so sánh đế nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này, ở đây, dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ có khác.

Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Nhưng cũng chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị .

Hai câu đề:

Ba gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.

Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ xuống một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te thi đã rõ ra là lụp xụp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo, ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập loè lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng.

Hai câu thực:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.

Hai câu luận:

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Nguyễn Khuyến tả cảnh trời và cảnh mình. Dường như bầu trời và con người đều bị một thế lực vô hình nấo đó làm cho biến đổi: Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu ? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ ai trong câu thơ lấp lửng một mối hoài nghi lấp lửng nhưng không vô ý. Đây cũng là biểu hiện tâm trạng của nhà thơ chăng? Hay là nó cũng cùng một mạch với cảm nhận hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái và nghe tiếng ngỗng văng vẳng trên không mà giật mình tự hỏi là ngỗng nước nào ?

Tâm tư nhà thơ trĩu nặng trước cảnh đất nước bị lũ giặc ngoại xâm giày xéo mà mình thì đau đớn, day dứt khồng nguôi.

Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy, Chỉ dăm ba chén đã say nhè. Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế? Do người nhìn say rượu chăng bởi khi say thì nhìn một hoá thành hai, thành ba hoặc nhạt nhoà tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say.

Âm thanh bài thơ cũng theo điệu ấy. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở các từ: le te, lập loè, loe, đỏ hoe, say nhè. Tất cả các từ quy vào âm chủ đạo là e: từ nhè, say nhè mà ra rồi nhoè ra thành nguyên âm đôi oè (lập /oè), oe (loe, hoe), các vần này cũng lảo đảo say theo, say mạnh hơn. Cảnh vật cũng như say: ánh sáng đom đóm hoá lập loè, bóng trăng chập chờn loe ra theo làn sóng, mắt người tự nhiên cũng đỏ hoe. Trong câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm l nối tiếp nhau, càng làm tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chĩ ở bóng trăng mà ở cả mặt ao, làn nước và từ đó lan toả ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ say nhè.

Nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu vắng. Sau dăm ba chén, hơi men đã khơi dậy tâm tư. Nỗi xúc động sâu xa trong tâm hồn nhà thơ thấm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu ẩm là ở đó. Nhà thơ buồn bã, day dứt không nguôi trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo đến cả cảnh vật đêm thu. Đã có lúc không uống rượu và tâm trạng dường như vui hơn, cụ Tam Nguyên tự cười mình và cũng thấy mình chuếnh choáng: Khấp khểnh ba chân dở tĩnh say kia mà.

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 3

Hình như trong thi ca – nhắc đến mùa thu là nhắc đến nỗi buồn – nỗi buồn trải ra với đầy đủ cung bậc: từ buồn thương, buồn nhở, buồn man mác… Nhưng với mỗi thi nhân, nỗi buồn lại gắn với một tâm sự khác nhau. Đến với Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – nhà thơ của làng cảnh Việt Nam – người đọc lại được chiêm ngưỡng một bức tranh thu với với đủ sắc màu và âm thanh dưới cái nhìn, dưới con mắt của một thi nhân, của một con người đang đơn độc nâng chén với cuộc đời. Nhan đề “Thu âm” – mùa thu uống rượu – là nhãn tự, là nơi nói lên nội dung chính của bài thơ.

Có thể nói, trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, chỉ có bài Thu điếu là nhất quán về không gian, về thời gian. Còn ở bài Thu vịnh và Thu ẩm khó có thể xác định một không gian, thời gian cụ thể nào. Có thể nhà thơ Nguyễn Khuyến uống rượu làm thơ trong một đêm thu nào đó nhưng cảnh thu không nhất thiết là cảnh đêm thu. Khi cái say men đã làm thi nhân hơi chếnh choáng thì các hình ảnh lần lượt hiện về trong tâm trí dệt nên bức tranh thu đa dạng.

Vẫn bằng bút pháp hiện thực quen thuộc, bằng lời thơ bình dị, Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng cảnh:

Năm gian nhà cỏ thấp le te

Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.

Nơi nhà thơ đang uống rượu làm thơ không phải là thư phòng, thư sảnh của lầu son gác tía nào mà chỉ là ngôi nhà cô đơn sơ bình dị nơi thôn dã, một ngôi nhà lợp bằng rơm rạ “thấp le te”. Từ nơi ấy thi nhân nhìn ra chỉ thấy màn đêm sâu thẳm. Đó là một đêm tối gợi lên chiều sâu không cùng, tối tăm, ánh sáng đom đóm mới lập lòe như thế. Trong đêm thu trời tối, Nguyễn Khuyến trầm ngâm bên chén rượu, những cảnh thu ở nhiều nơi cứ lập lòe ẩn hiện trong tâm trí của thi nhân. Đó là cảnh chiều thu quê hương yên ả, đầm ấm:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt.

Đó là cảnh đêm trăng mùa thu được cảm nhận từ phía ao nhà: “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”. Đó là cảnh mùa thu trong một ngày nắng đẹp: “Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt”. Cảnh trong tâm tưởng mà rất thực, rất bình dị. Đó là cảnh quê, hồn quê từ lâu đã thấm sâu, hòa nhập vào tâm hồn Nguyễn Khuyến để khi làm thơ thi hứng lại gọi về. Trăng mùa thu là thi liệu quen thuộc nhưng thi liệu ấy lại trở nên mới mẻ sinh động lạ thường khi được nhìn qua đôi mắt của thi sĩ làng quê Yên Đổ. Nhà thơ Xuân Diệu cho đây “là một câu thơ hiếm có”, một phát hiện của nhà thơ có tài: “… câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt nước ao sáng lóe ra, bốn chữ khả năng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng, lánh, bóng) gợi ánh bắn đi; từ loe, âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe) như cái ao chẳng hạn”. Xuân Diệu đã phân tích rất tinh tế khả năng gợi tả của ngôn ngữ ở phương diện ngữ âm

Nhưng để có cái hay, cái đẹp, cái độc đáo ấy trước hết là ở cách nhìn, ở hướng tiếp cận. Thi sĩ bao đời nay miêu tả trăng thu. Nhìn trăng qua ao mới có vẻ đẹp lóng lánh như thế, trăng từ trong ao hắt ánh sáng lên mới tạo ra những chùm sáng lòe như thế. Một thi sĩ tài năng thì không có đề tài nào là mòn cũ, không có câu chữ nào là mất đi sức sống.

Thu ẩm là mùa thu uống rượu mà mãi cuối bài thơ mới thấy hình ảnh người uống rượu xuất hiện:

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè.

Đó là chân dung tự họa của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong những năm tháng ẩn dật ở quê nhà. Nỗi niềm gì đang xót lòng xót dạ người nho sĩ ấy đến mức mắt đỏ hoe, rớm máu? Từ đôi mắt, người đọc nhìn thấu nỗi buồn đau của cụ Tam Nguyên. Đã từng đỗ đầu thi hương, thi hội đã từng được vua ban chức này tước nọ mà Nguyễn Khuyến không chút đắc ý về cuộc đời mình. Có lúc ông còn thấy việc học cũ là viển vông vô ích, việc làm quan trong thời buổi ấy là nỗi nhục. Tưởng là trở về vườn xưa chốn cũ để thanh thản nỗi lòng, nào ngờ đâu lòng vẫn nặng buồn đau:

Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn
Tình thương hải tang điền qua mấy lớp.
                                          (Trở về vườn cũ)

Để dịu bớt cơn đau, để khuây khỏa nỗi buồn, Nguyễn Khuyến đã làm bạn với túi thơ, bầu rượu. Ở Trung Quốc có nhà thơ Lí Bạch làm nhiều bài thơ về rượu, ở nước Nam ta không có ai nói về rượu trong thơ nhiều như Nguyễn Khuyến. Nhà thơ hay uống rượu nhưng chả uống được nhiều. Người ta uống rượu để mà quên, để mà say còn Nguyễn Khuyến uống rượu lại càng nhớ, lại càng buồn. Cái tôi trữ tình của nhà thơ trong bài Thu ẩm bề ngoài thì có vẻ say nhè nhưng thực chất là rất tỉnh. Say nhè để quên mọi chuyện nhưng nhà thơ không quên được nỗi đau buồn về non sông đất nước.

Bức tranh thi nhân uống rượu trong đêm thu khép lại với những vần thơ đầy xúc động. Có bài thơ, ngoài nhan đề Thu ẩm – chẳng có thêm một chữ “thu” nào, thế mà hồn thu, hơi thu lan tỏa khắp không gian, thấm vào vạn vật và dư âm thu vẫn lan tỏa mãi trong lòng người đọc. Với Thu ẩm, nhà thơ đã viết nên một áng thơ mang đậm dấu ấn và âm hưởng riêng của một Nguyễn Khuyến tài tình và tinh tế, qua đó bộc lộ tâm sự, nỗi buồn về vận nước. Niềm yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu hiện thâm trầm, kín đáo mà không kém phần sâu sắc.

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 4

Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền văn học dân tộc, có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thu ẩm là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam.

Nhan đề bài thơ “Thu ẩm” có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu vịnh (Mùa thu làm thơ), Thu ẩm (Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hổn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.

Trong bài Thu ẩm này, ở đây dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ được đưa vào trong bài. Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Nhưng cũng chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị .
Ba gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.

“Nhà cỏ”, dùng để chỉ ngôi nhà đơn sơ, nhưng thấp le te thì đã cho thấy là lụp xụp và chẳng còn lành lặn. Mái tranh đã rách nát, xác xơ. Tiếp đến ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập lòe lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng.

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe.

Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu. Hình ảnh trung tâm của bài thơ là “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”. Câu thơ đã diễn tả trạng thái ngà ngà say đến “say nhè”: “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”. “Say nhè” là say êm, say nhẹ, say rồi ngủ quên đi lúc nào chẳng biết. Chẳng phải là say bét nhè, bê tha.

Trong sáu câu thơ đầu thì đã có đến năm câu đều có màu sắc thể hiện một cái nhìn đếm thu lúc ngồi uống rượu một mình. Có màu đen thẫm mịt mùng của đêm sâu ngõ tối. Có ánh sáng “lập loè” của bầy đom đóm. Có sắc trắng nhờ của “màu khói nhạt” nhẹ bay “phất phơ” trên lưng giậu cúc tần trước sân của năm gian nhà cỏ bình dị. Có màu vàng của bóng trăng loe tan ra lóng lánh trên làn ao “sóng biếc theo làn hơi gợn tí” trong veo. Có da trời màu “xanh ngắt” rất đẹp. Và sắc “đỏ hoe” của đôi mắt ông lão, của thi nhân đang uống rượu âm thầm. Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường:

Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy

Chỉ dăm ba chén đã say nhè.

Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế? Do người nhìn say rượu chăng bởi khi say thì nhìn một hoá thành hai, thành ba hoặc nhạt nhoà tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say.

Bài thơ, ngoài đầu đề “Thu ẩm” ra, chẳng có một chữ thu nào nữa, thế mà câu thơ nào cũng chứa đựng một tình thu, và hồn thu man mác, dào dạt. Đó là chất thi vị độc đáo của bài thơ này. Các từ láy: le te, lập loè, phất phơ, lóng lánh… với các từ rượu, chén, say nhè, cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến vô cùng tinh luyện, hình tượng và biểu cảm.

Với bài “Thu ẩm”, nhà thơ thể hiện sự buồn bã, day dứt trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn. Tất cả cũng đều vì tình yêu quê hương đất nước của tác giả.

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 5

Nguyễn Khuyễn, một nhà thơ tài năng và nhân vật với cốt cách thanh cao, đã dành trọn tâm hồn yêu nước và thương dân. Trong sự nghiệp thơ của mình, ông đã từ bỏ chốn quan trường, nơi mà nhiều người khác có thể chọn lựa để tu tâm và lập nghiệp. Quyết định này không khác nào một biểu hiện rõ ràng về sự chán ghét đối với chính quyền thực dân Pháp và bộ máy nhà nước phong kiến thối nát. Nổi tiếng với sự đa dạng và sâu sắc, tác phẩm thơ của Nguyễn Khuyễn bao gồm cả chữ Hán và Nôm. Trong danh mục tác phẩm ấn tượng của ông, chùm thơ thu bằng chữ Nôm và đặc biệt là “Thu Ẩm” là một tác phẩm nổi bật, làm nức danh tên tuổi của ông.

Tiêu đề “Thu Ẩm” có thể được giải đọc là mùa thu, nơi mà uống rượu không chỉ đơn thuần là việc nốc những giọt đắng cay trong chai hay bầu rượu, mà còn là một hành trình tinh tế, tận hưởng đầy những giá trị văn nhã. Điều này phản ánh sự tinh tế và trữ tình của một thi sĩ, mê mải nhìn nhận vẻ đẹp của mùa thu. Hai câu đầu của “Thu Ẩm” là những bức tranh tinh tế về mùa thu, như những dải ánh vàng ấm áp, làn hương hoa quyến rũ. Nó không chỉ là một bức tranh về mùa thu với những cung đường đẹp, mà còn là một chuyến phiêu lưu tinh thần, nơi tác giả trải qua mọi cảm xúc, từ hạnh phúc cho đến những khắc khoải bi ai.

“Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.”

Khác biệt rõ ràng giữa cảnh mùa thu của “Thu ẩm” và Thu vịnh nằm trong cách tả của nhà thơ. Trong bức tranh của Thu ẩm, mỗi chi tiết được khắc họa một cách tinh tế và sâu sắc, đưa người đọc đắm chìm vào không khí tĩnh lặng và dễ chịu của một quê hương bình dị. Nhìn chung, nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ hình ảnh phong phú và mô tả sắc màu đa dạng để tạo nên một cảnh mùa thu độc đáo và ấn tượng. Cảnh vật quê hương được mô tả rất sinh động, từ những con ngõ tối, ánh sáng lập lòe của đom đóm, màn sương đêm phất phơ, cho đến bầu trời mùa thu với màu xanh ngắt nền nã và trời thanh mát. Cảnh đêm tĩnh lặng của quê hương được tô điểm bởi bóng trăng “lóng lánh” trên mặt ao phẳng lặng và hình ảnh “bóng trăng loe” nhàn nhạt, tạo nên một không gian yên bình và trữ tình.

Đặc biệt, sự kết hợp giữa màu xanh của trời và sắc đỏ hoe trong đôi mắt người uống rượu đã tạo nên một bức tranh tinh tế và đầy cảm xúc. Hình ảnh “đỏ hoe” của đôi mắt không chỉ là sự tương phản với màu xanh của trời, mà còn chứa đựng sự ấm áp và say đắm của người uống rượu khi lặng lẽ thưởng thức cảnh mùa thu. Tác giả đã tận dụng tốt sức mạnh của từ ngữ và hình ảnh để tạo nên một không khí thuận buồm cho cảm xúc của người đọc. Những chi tiết chân thực, tinh tế đã làm cho bức tranh càng trở nên sống động và gần gũi với độc giả.

“Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè”

Đây là tiếng thơ của một thi nhân tinh tế, đàm phán về nền văn hóa của rượu mà nhà thơ thường nghe người khác ca tụng như một niềm vui tinh tế và tao nhã. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến, với cái nhìn sắc bén và tinh tế của mình, không hài lòng với sự kỳ vọng quá lớn đặt vào thứ đồ uống này. Trái ngược với quan điểm phổ biến, ông nhìn nhận rằng rượu chẳng có gì đặc biệt, “hay chả mấy”, không giống như lời đồn thổi đã làm cho nó trở nên quá mỹ mãn. Thú vị hơn, không chỉ là nhà thơ này không phải là người sành rượu, mà ông còn mô tả cảnh say rất nhẹ nhàng với “Độ năm ba chén đã say nhè”, tạo nên hình ảnh của một người trải nghiệm rượu lần đầu hoặc ít khi nào thử nghiệm. Điều này đặt ra câu hỏi rằng tại sao một nhà thơ như Nguyễn Khuyến lại chọn đến với rượu? Có thể hiểu rằng, trong bối cảnh xã hội xáo trộn, đất nước chấn động, ông tìm đến rượu như một lối thoát, một cách để giảm bớt nỗi buồn và cô đơn.

Phong cách uống rượu của Nguyễn Khuyến được miêu tả vô cùng lãng mạn và buồn bã. Cảnh vật uống rượu này là một khung cảnh tràn ngập sự cô đơn, vắng vẻ, và sự u uất trong từng bức tranh. Nhìn vào phong thái của nhà thơ khi uống rượu, chúng ta có thể cảm nhận được không khí buồn bã trước những biến cố của thời cuộc. Đất nước hỗn loạn, người thân ra đi, và ông trải qua sự cô đơn với những nỗi đau tuổi già và bệnh tật. Rượu trở thành nguồn an ủi, nơi ông có thể tìm được giây phút quên lãng, qua mỗi chén rượu, ông say mèm và chìm vào giấc ngủ, thoải mái và không còn nỗi buồn. Điều này làm cho câu thơ của Nguyễn Khuyến trở nên bi thương và đầy xót xa. Những tưởng vui vẻ của rượu đã chuyển thành nỗi đau lẻ loi của cuộc sống và những thất bại không lường trước được.

Bài thơ “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến không chỉ là một bức tranh về cảnh thu, mà còn là một tâm hồn đang trải qua những biến cố cuộc đời. Từ đầu đến cuối bài thơ, tác giả không nhắc đến từ “thu” một lần nào, nhưng người đọc có thể cảm nhận một mùa thu lạc lõng trong từng chi tiết, từng cảm xúc được gói gọn tinh tế. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh “Rượu đắng cay chén”, ngay lập tức đưa người đọc chìm đắm vào không khí buồn bã, cô đơn. Rượu đắng cay không chỉ là đồ uống mà còn là biểu tượng cho những trải nghiệm đắng ngắt, khó khăn của cuộc sống. Chén rượu là người bạn đồng hành, đồng cảm với tâm hồn thi nhân. Mùa thu được tác giả mô tả qua những hình ảnh nhẹ nhàng, trầm lắng. “Mắt nồng sương, cửa trăng lên” là bức tranh tĩnh lặng của đêm thu, mặt trăng soi sáng mọi ngóc ngách như muốn chia sẻ nỗi lòng của nhà thơ. “Những tiếng rì rào” là âm thanh mơ hồ, gợi lên bức tranh một ngày thu yên bình, những tiếng lướt nhẹ của lá rơi, những tiếng còi xa xôi.

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 6

“Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến là một trong ba bài thơ nổi tiếng của ông về mùa thu, cùng với “Thu điếu” (Mùa thu câu cá) và “Thu vịnh” (Mùa thu làm thơ). Bài thơ này thể hiện tâm trạng của nhà thơ trước cảnh đất nước đang chịu bao nhiêu biến cố và khó khăn. Dáng thu trong “Thu vịnh” được mô tả như một bức tranh thơ mộng, thăm thẳm và xa vời. Cảnh vật được nâng niu với sự tận hưởng của nhà thơ: trời thu xanh ngắt, khóm tre thu nhỏ, sương như khói bao phủ mặt nước, hoa năm nay hoa năm ngoái gặp nhau, tiếng ngỗng thảng thốt như trong mơ. Hồn thu như lặng chìm vào bôn trong, tạo nên bức tranh thu mộng, nhưng cũng ẩn chứa nỗi u uất, băn khoăn.

Trái ngược với “Thu vịnh”, “Thu điếu” lại chứa đựng sự tĩnh lặng và nhỏ bé của cảnh vật. Bức tranh câu cá nhỏ nhưng đẹp đẽ, với chiếc thuyền câu bé tẻo teo, nước ao gần như yên bình, lá vàng rơi một cách nhẹ nhàng, tiếng cá đớp động như là âm nhạc trong không khí yên tĩnh. Nhà thơ tận hưởng sự tĩnh lặng và chờ đợi mỏi mòn giữa không khí yên bình, tạo nên bức tranh thu nhỏ, giản dị nhưng tràn đầy ý nghĩa. Và cuối cùng, “Thu ẩm” mang đến một góc nhìn khác về dáng thu và hồn thu. Nguyễn Khuyến, không còn là nhà thơ mà là ông già khề khà chén rượu, đưa người đọc đến với cảnh vật quen thuộc nhưng có vẻ khác biệt. Cảnh vật trở nên đầy bất ngờ và thú vị thông qua góc nhìn của một ông già uống rượu giải sầu. Mặc dù vẫn giữ được vẻ quen thuộc của những chi tiết như nhà, vườn, cánh đồng, ao, nhưng tất cả đều được nhìn nhận từ góc độ của một người đã trải qua nhiều thăng trầm cuộc đời.

Ba gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.

Nhà tranh khi được mô tả là “nhà cỏ” đã trở nên vụng trộm, mất đi vẻ đẹp tự nhiên và giản dị. Gọi là “nhà cỏ” giống như một sự xâm phạm vào cái đẹp của ngôi nhà, làm cho giá trị của nó giảm sút. Từ “thấp le te” là một tảng báo về sự suy tàn, hư hại, và nhà tranh không còn giữ được vẻ đẹp ban đầu. Những hình ảnh về “mái tranh rách nát” và “xác xơ đổi dạng” tạo nên một cảnh tượng bi thảm, thể hiện sự sa sút và khốn khổ của nơi này. Tiếp theo, mô tả về “ngõ tối” và “đêm sâu” thường gặp trong văn thơ nhưng được kết hợp với hình ảnh “ánh lửa đom đóm lập loè” để tạo ra một bức tranh độc đáo. Ánh sáng lung linh và biến đổi của đom đóm không chỉ làm biến dạng không gian mà còn thêm vào đó là một cảm giác kỳ bí và u buồn. Sự pha trộn giữa bình thường và kỳ ảo, giữa tối tăm và ánh sáng, tạo ra một không khí huyền bí và nặng nề. Bằng cách này, tác giả đã tạo ra một bức tranh vô cùng chân thực và đầy ẩn ý về sự suy tàn, sự đau khổ và cái giá của thời gian trôi qua, tạo nên một không gian văn hóa độc đáo và sâu sắc.

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Sương thu giăng mỏng nhẹ, như bức tranh mờ mờ vẽ lên bờ giậu, làm cho rặng cây giảm bớt sức sống, màu sắc dần nhạt nhòa trong bóng đêm. Hình ảnh này tinh tế và tài tình, như là sự thức tỉnh nhẹ nhàng của mùa thu, khiến cho không khí trở nên dịu dàng, trữ tình. Mặt ao được miêu tả như một tấm gương phản chiếu tinh tế, nơi ánh trăng lóng lánh gặp sóng nước nhỏ. Bóng trăng trên mặt nước không ngừng biến đổi, đan xen giữa những khoảnh khắc dồn lại và lóe ra. Hình ảnh này không chỉ tạo nên vẻ đẹp nên thơ, mà còn làm nổi bật sự dao động, thăng trầm của cuộc sống, tượng trưng cho những biến cố và cảm xúc trong cuộc hành trình của con người.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến tạo nên một bức tranh thu đầy mê hoặc không chỉ qua cảnh vật mà còn qua tâm trạng và tâm hồn của chính ông. Mỗi chi tiết, mỗi từ ngữ đều được chọn lọc một cách tinh tế để tạo ra bức tranh chân thực và sâu sắc về cảnh đời và tâm lý của nhà thơ. Chuyển động của cảnh vật và tâm hồn của người nhìn như hòa quyện vào nhau, tạo nên một không khí lãng mạn và buồn bã. Mô tả về bầu trời xanh ngắt và ánh đỏ hoe của mắt tạo nên một hình ảnh phức tạp, đầy nhiều ý nghĩa. Câu hỏi “Ai nhuộm da trời xanh ngắt?” là một cách tinh tế để tạo ra sự thắc mắc và tò mò, đồng thời đặt ra những câu hỏi về nguồn gốc của màu sắc trong bức tranh thu. Sự biến hình và đối chiếu giữa môi trường và tâm trạng của nhà thơ được thể hiện qua việc mô tả ánh đom đóm “lập loè” và ánh trăng “loe” ra. Cảnh vật tĩnh lặng của đêm thu trở nên huyền bí và mơ hồ dưới tác động của ánh sáng từ đom đóm và trăng, tạo ra một không gian đầy ma mị và quyến rũ.

Nguyễn Khuyến sử dụng âm thanh với sự đa dạng và sáng tạo, tạo ra một bản nhạc riêng biệt cho bức tranh của ông. Các từ như “le te”, “lập loè”, “loe”, “đỏ hoe”, “say nhè” không chỉ tạo nên âm thanh độc đáo mà còn kết hợp hài hòa với tâm trạng và cảnh vật trong bài thơ. Điều này làm cho độc giả cảm nhận được không khí say đắm và buồn bã trong cả bức tranh và trong tâm hồn của nhà thơ. Cuối cùng, việc nhà thơ nói về “rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy” và chỉ “dăm ba chén đã say nhè” không chỉ là một tình tiết nhân văn mà còn là biểu hiện của sự hiểu biết sâu sắc về lòng người và tình yêu quê hương trong tâm hồn của nhà thơ. Từ những chi tiết nhỏ, ông đã vẽ lên một bức tranh đầy cảm xúc và ý nghĩa, làm cho bài thơ trở nên sâu sắc và đầy ấn tượng.

Xem thêm các bài Văn mẫu lớp 8 Kết nối tri thức hay khác:

Viết bài văn phân tích bài thơ “Thu vịnh” của Nguyễn Khuyến (hay nhất)

Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt Đường luật) (hay nhất)

Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) trình bày cảm nhận của em về nhan đề hoặc một hình ảnh đặc sắc trong bài thơ Thiên Trường vãn vọng (hay nhất)

Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) phân tích 2 câu thơ khiến em có ấn tượng nhất trong bài thơ Thu điếu (hay nhất)

Trình bày bài giới thiệu ngắn về cuốn sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng (hay nhất)

Đăng bởi: Trường Tiểu Học Tiên Phương

Chuyên mục: Tài Liệu Học Tập

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Kênh https://xoilaczzh.tv/ trực tiếp bóng đá